Bình luận Thủy Hử – Phần 2: All are brothers? Thế thiên hành đạo, sao mà nực cười…

Như tôi đã phân tích ở phần trước, cái thất bại đầu tiên của Thi lão tiên sinh Kame, tên thật là Thi Nại Am là việc dựng lên hàng loạt nhân vật như những bức tượng đá vô hồn chỉ đáng đem cất vào tủ cho anh hùng tứ xứ cúi lạy và ca tụng. Cập Thời Vũ Tống Giang chẳng đang đem làm anh chàng chạy bàn trong quán của Lưu Huyền Đức, Trí Đa Tinh Ngô Dụng có thể tạm đem làm anh chàng hàng xóm láu lỉnh cạnh nhà của Gia Cát Khổng Minh để học mót vài món nghề đâm bị thóc chọc bị gạo, Đại đao Quan Thắng chẳng qua chỉ là thằng hề bắt chước Quan Vũ bằng cách đeo bộ râu dài, đem son phấn của vợ tô mặt đỏ, vác cây đại đao và cưỡi ngựa xích thố của bọn hàng giết mổ gia súc, Lý Quỳ có chăng có thể là hâm mộ Trương Phi mà có bộ mặt đen sì nhưng lại vô cùng kém cỏi trong việc phân biệt phải trái…

Thực ra thì bọn họ vẫn gọi nhau là anh em, nào là Tống Đại ca, rồi Võ hiền đệ… Bốn biển là nhà đấy chứ? Ôi, nhưng tôi lại nhận ra một sự thật phũ phàng của cái đám tượng đá vô hồn ấy. Một thứ anh em vô cảm, một đám ngày đêm kêu nhau là huynh đệ mà chẳng ai dám thừa nhận rằng mình đã hùa theo cái đám dở hơi kia để được thiên hạ gọi là “anh hùng hảo hán”.

Chúng tôi vẫn đùa nhau một câu là “thân đến mức thân thằng nào thằng ấy lo”. Anh em Lương Sơn thì lại không thân nhau kiểu đó, mà thân thiết kiểu ép nhau lên Lương Sơn, dồn nhau vào chỗ cùng đường để làm giặc cướp. Một gã được thiên hạ gắn cho cái mác “Cập Thời Vũ” – tức là như cơn mưa đến lúc trời khô hạn khi muốn kéo một vị tướng quân triều đình là Tần Minh (kẻ có danh hiệu cực kêu là Tích Lịch Hỏa – nghe đã thấy phát ngốt) theo phe của mình đã cho người đóng giả Tần Minh, kéo quân vào thành đốt nhà, giết người, tàn sát dân chúng đổ tội cho Tần Minh. Cái kết cục tất yếu của việc đó là cả nhà của Tần Minh bị chết oan uổng, kể cả vợ đẹp con khôn, khiến cho Tần Minh từ chỗ công danh đề huề, vợ đẹp con khôn trở thành kẻ nhà tan cửa nát, cùng đường, và bị dụ dỗ đi theo lũ giặc cướp. Sau đó lại còn phải cảm tạ Tống Công Minh đã ép gả cô em gái của Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh cho mình. Eo ơi, nghe sao mà khiếp. Phải chăng Tống Công Minh sẽ đem Tần Minh đến một sứ thần tiên? Không đâu, cái anh Tích Lịch Hỏa ấy cúc cung tận tụy phục vụ vị Tống Đại ca – Hô bảo nghĩa ấy làm giặc cướp chống triều đình, sau đó lại bị chính cái vị thủ lĩnh ấy bắt phải quay trở lại quỳ gối khom lưng theo triều đình – nơi mà trước đó bọn họ bảo toàn là hôn quân, gian thần, để rồi sau đó lại chết thảm nơi đất khách quê người.

Một Từ Ninh đang làm quan, sống đàng hoàng với vợ con, chỉ vì các “anh em” Lương Sơn muốn biết cách đánh câu liêm đã dùng kế ăn trộm áo giáp quý của ông ta để ép ông ta lên Lương Sơn, lại bị ép thành giặc cướp.

Đau đớn nhất là vị có cái tên cực kêu Ngọc Kỳ Lân Lư Tuấn Nghĩa. Đang là một điền chủ giàu có và đầy quyền thế thì bị một người (cũng xưng nhau là anh em) biệt danh là Trí Đa Tinh, tên thật là Ngô Dụng lừa mưu mời lên Lương Sơn, sau đó lại dùng kế đâm sau lưng vu cho ông ta mưu phản khiến cho ông ta nhà tan cửa nát, bị kẻ khác chiếm mất hết tài sản, lại phải lên Lương Sơn. Cái kết cục của vị Ngọc Kỳ Lân này mới thảm làm sao. Bị “đám anh em” kia dụ dỗ thành giặc cướp chống triều đình, sau đó lại phải quay lại làm nô tài cho triều đình và chết đứt ruột vì ăn cơm có trộn thủy ngân.

Đáng thương cho một Lâm Xung, võ nghệ siêu quần, bị Ngô Dụng, Tiều Cái đẩy vào chỗ bất nghĩa, giết chết bạn hữu (Vương Luân), sau đó lại chính những người anh em kia lại cười khẩy mà ngồi lên ghế trên, còn Lâm ta phải ngồi ở dưới. Tôi không hiểu sao lúc đó anh em Tiểu Cái, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng… có thể mặt dày mà chiếm cái ghế đó từ tay Lâm Xung. Cuộc đời của Lâm Xung mới thật bi thảm làm sao. Nhà tan cửa nát phải lên Lương Sơn, muốn có một chốn tự do, mọi người coi nhau là anh em, nhưng rồi lại chính những người anh em đó lại mang ông ta trở lại cái chốn đau thương xưa, lại phải khom lưng đi hầu những kẻ thù cũ (Cao Cầu), rồi mang bệnh mà ốm chết trong sự uất ức tột cùng. Có thể nhớ đến hình ảnh Lâm Xung đấm chết ngựa rồi thổ huyết chết ngất khi Cao Cầu được Tống Giang xun xoe, rồi đưa về triều.

Ôi, chắc chỉ có những “anh em” như ở Lương Sơn mới có kiểu ép nhau làm giặc cướp, bày tỏ sự kính mến với nhau bằng cách làm cho nhau nhà tan cửa nát để theo mình. Và để che đậy cho cái sự cưỡng ép nhau đó, người ta lại đi lừa phỉnh bằng một câu là “Bị triều đình ép lên Lương Sơn”. Nhưng kỳ thực trong số 108 vị giặc cướp Lương Sơn có vô số các vị “hảo hớn” chưa hề bị ai ép mà bị chính các anh em của mình ép. Ai nói Tống Giang là “Cập Thời Vũ”, là “Hô Bảo Nghĩa”? Theo tôi nhân vật này cần đáng xét lại, ông ta không chỉ đơn giản như thế. Làm bộ tịch từ chối không lên Lương Sơn, muốn làm đứa con hiếu nghĩa, muốn tận trung triều đình nhưng rồi lại chễm chệ ngồi ghế cao nhất để chống triều đình, rồi sau đó cầm quân đánh dẹp khắp các anh hùng hào kiệt khác cạnh tranh với mình. Phải chăng Tống Giang có chí lập công lớn để có trong tay thiên binh vạn mã mà soán ngôi? Ai mà biết!!

Vâng, và còn hơn cái gọi là “anh em” ấy là sự phân biệt quen biết, sang hèn. Anh chàng Quan Thắng vì con nhà dòng dõi nên nhất định sẽ chiếm ngôi vị chánh tướng cho dù anh chàng này đánh trận thua lả tả bị bắt sống, lại còn cúi đầu hàng phục, Lý Quỳ chỉ là kẻ thô lỗ, không có đầu óc thì nằm ở hàng chánh tướng chỉ vì hắn cúc cung tận tụy ôm gối Tống đại ca, còn người nghe tên cực kêu là “Thần cơ quân sư Chu Vũ” vì chỉ là giặc cỏ nhỏ nhoi theo về nên cũng chỉ làm lèm nhèm ở phó tướng, Lưu Đường ở tới b�
��c 21 là vì chơi thân anh em đầu lĩnh Tống, Tiều… Cấp bậc ở Lương Sơn là một sự phân biệt sang hèn, phân biệt xuất thân và phân biệt sự quen biết với mấy bác đầu lĩnh ban đầu. Nói trắng ra là nếu 108 vị đều là anh hùng hảo hán, coi nhau như anh em ruột thịt thì cần gì phải phân cấp tới bậc 108 thế? Chỉ cần bầu ra vài vị thủ lĩnh, còn lại thì đâu cần phân biệt sang hèn… Nếu như là triều đình quan tướng thì coi nhau bậc trên bậc dưới cũng đành. Ví như anh chàng Lưu Huyền Đức có lên ngôi vua rồi mới dám phong cho 5 ông tướng giỏi nhất, công trạng lớn nhất là Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Mã Siêu làm Ngũ hổ đại tướng. Có thể thấy ngay cả anh chàng xuất thân tầm thường như Hoàng Trung vì lập đại công nên vẫn cứ lên hổ tướng như thường. Trước khi ông ta lên ngôi vua thì ngoài quân sư Gia Cát, thì Quan hay Trương hay Triệu cũng là những võ tướng như nhau, cùng cấp bậc với những Ngụy Diên, Hoàng Trung… Tôi so sánh điều này để nói rằng thực ra cái Lương Sơn đó chỉ là anh em gia đình trá hình, thực tế là một dạng triều đình mà ở đó sự quen biết, dòng giống xuất thân… là một recommendation letter vô hình để nắm giữ chức vụ cao. Khi cúi đầu về phục vụ triều đình, Tống Giang có thể mặt dày nhận chức vụ của triều đình (cùng với anh chàng kỳ lân rẻ tiền Lư Tuấn Nghĩa nhận chức), còn để cho “anh em” của mình ra sống vào chết mà không được một phong thưởng nào.

Cái lá cờ “Thế thiên hành đạo” mới gọi là nực cười làm sao! Ngay để “thế thiên” dụ dỗ, ép buộc anh chàng Tần Minh làm giặc cướp, “hành đạo” sẽ là việc đốt nhà, giết người khiến dân thành Thanh Châu ra ma, cả nhà Tần Minh đi đời. Hành đạo là việc cứu một anh em, cho Chúc gia trang phơi đầy thây ma. Tống Giang nghiễm nhiên tự giương lên lá cờ đó, và default cho rằng Lương Sơn là một chốn nhất thiên hạ, ai chống lại có nghĩa là chống lại Trời, và lập tức đám giặc cướp này sẽ nghiễm nhiên tới trước tiên là cướp thành, đốt nhà, giết người. Để cứu một anh “Tống Công Minh”, Lý Quỳ tay hai ngọn búa, ào ào vào thành gặp ai chặt đầu người đó. Kiểu “hành đạo” này cũng giống như một số chuyện cười mà người ta hay đặt ra để đùa mấy phim action kiểu Mỹ: cứu một anh binh nhì, cho cả tiểu đoàn đi đời.

Một Sử Văn Cung dám cùng với anh em Tăng Đầu thị nhăm nhe lập cõi riêng, không chịu theo Lương Sơn, thế là bị tóm cả đoàn. May mắn thay, anh chàng Tiều Cái chưa kịp hưởng hết niềm hân hoan làm vua một cõi thì bị Sử Văn Cung lỡ tay bắn chết, và thế là cả đám Tăng Đầu thị cũng theo đó đi đời. Chúc gia trang còn thảm hơn. Ăn trộm ngựa của “bọ”, đã thế còn “hung hăng” lập cõi riêng, họp báo tuyên bố toàn thiên hạ không chịu cúi đầu Lương Sơn, thế là dù có võ trang đến đâu cũng chẳng thể chịu nổi đòn của đám giặc cướp. Cả thôn đi đời nhà ma…

Finally, có thể nói rằng Thủy Hử là chuyện đỉnh cao của những thất bại: thất bại từ giá trị văn học đến các giá trị nhân văn. Thất bại của văn học là sự kém cỏi trong việc xây dựng nhân vật, kém cỏi trong trong việc tạo ra tình huống, cốt truyện, vô cùng kém sáng tạo, không những thế dập khuôn mẫu người của Tam Quốc, mà lại dập khuôn một cách vô cùng kém tắm. Có thể nói nếu Quan nhị ca có hiển thánh ở đời Thủy Hử chắc sẽ đập chết thằng cháu bụng bự Đại Đao, tát vỡ mặt thằng mạo nhận “Mỹ Nhiệm Công” Lôi Đồng, Trương Phi thì đá đít thằng cu Lý Quỳ xuống ao, còn bác Gia Cát thì vuốt râu đánh rắm vào gã Trí Đa Tinh kém cỏi… Các giá trị nhân văn bị xóa bỏ bởi việc tàn sát, giết người một cách vô nhân đạo. Có thể nói đám 108 anh hùng hảo hớn Lương Sơn chỉ là một lũ giặc cướp không hơn không kém, và để thanh minh cho vụ đó, nào là thế thiên hành đạo, nào là bị ép lên Lương Sơn. Không, không ai ép cả, mà người ép họ là bác Thi Nại Am mà thôi.

Bình luận Thủy Hử – Phần 1: Đỉnh cao của sự kém cỏi trong nghệ thuật xây dựng nhân vật

Tam Quốc diễn nghĩa, Tây Du Ký, Thủy Hử, Sử ký Tư Mã Thiên, Đông Chu liệt quốc là những tác phẩm văn học Trung Quốc được tôi đọc từ hồi còn bắt đầu học đánh vần cho đến tận bây giờ vẫn còn nghiền ngẫm. Nói chung Tam Quốc, Đông Chu, Tây Du Ký và Sử ký luôn là những tác phẩm mà tôi tâm đắc. Mặc dù Thủy Hử cũng thuộc nhóm chuyện yêu thích nhưng từ nhiều năm nay, trong tôi luôn có những băn khoăn về tiểu thuyết này, băn khoăn về việc không rõ nó có đúng như những gì mà người ta ca tụng không. Sau một thời gian bình luận cùng vợ yêu, tôi đã quyết định mạnh dạn bày tỏ những suy nghĩ của mình về tiểu thuyết này và có thể bạo gan mà đưa ra một kết luận “Thủy Hử – Đỉnh cao của sự kém cỏi trong nghệ thuật xây dựng nhân vật” – một thất bại của Thủy Hử trong lòng tôi.

Nhân vật là trái tim của bất kỳ tiểu thuyết nào, dù là võ hiệp, tình ái, lịch sử… Kể cả đến film sex, chỉ cần 2 nhân vật với những hành động lặp đi lặp lại vẫn cần có nhân vật. Và việc trang điểm cho các nhân vật đó luôn cần được quan tâm – văn học gọi là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Tác phẩm có thành công hay không có tới 70% là nhờ vào việc xây dựng thành công những hình tượng nhân vật. Ta có thể ví dụ những cách thức xây dựng nhân vật dù rất đơn giản mà cực kỳ đắt giá. Ví dụ như Tư Mã Thiên khi miêu tả Hạng Vũ kiêu hùng, nhất định bên cạnh sẽ có một Bái Công Lưu Bang vô lại mà lại biết lấy lòng người. Một Hạng Vũ anh dũng đánh trăm trận trăm thắng, sức khỏe vô song, tàn sát đến mức “chư hầu sợ phải cúi đầu lê gối mà không dám ngẩng đầu nhìn”, một Hạng Vũ có lòng nhân từ thương yêu tướng sĩ, ai bị thương thì khóc… Nhưng vị Hạng Vũ đó càng tuyệt vời bao nhiêu thì càng khiến cho người ta thất vọng bấy nhiêu: đánh trận giỏi đến nỗi đi đến đâu tàn sát người vô tội đến đó, nhân từ thương tướng sĩ đến độ tướng sĩ lập được công trạng thì lại tiếc tiền của, chức tước chẳng dám ban thưởng cho ai, nhân từ thương người đến độ chẳng thèm tin một ai, có một Phạm Tăng quân sư tài năng mà chẳng biết dung… Và một Bái Công vô lại ham cờ bạc rượu chè, mê gái ban đầu như thế mà càng về sau càng khiến cho người ta mơ ước: biết lấy lòng dân, bảo vệ dân chúng, không tiếc tiền của, chức tước ban thưởng cho người có công, biết sử dụng nhân tài khiến cho các tướng giỏi của Hạng Vũ đều theo về: Hàn Tín, Trần Bình, Bành Việt, Kình Bố… Cái cách so sánh cặp nhân vật Hạng Vũ – Lưu Bang là một thành công điển hình của kiểu văn học sử.

Hay trong văn học Việt Nam, ta có thể bắt gặp những cách thức xây dựng nhân vật cũng rất thành công, tôi nói ví dụ tác phẩm trong những thập kỷ gần đây là Mảnh đất lắm người nhiều ma của nhà văn Nguyễn Khắc Trường (ai chưa đọc chuyện có thể nhớ lại bộ phim truyền hình Đất và Người phát trên VTV mấy năm trước). Một Trịnh Bá Thủ mưu mô thâm trầm, mật ngọt chết ruồi, là đối thủ kinh người của Vũ Đình Phúc – người đứng đầu dòng họ Vũ cũng gian ngoan chẳng kém mà cứ nằm trong xó tối đẩy cái mâu thuẫn lên cao. Và đứng một phía của sự kình địch của hai dòng họ ấy là một Trịnh Bá Hàm, Hàm thọt, điển hình cho một hình mẫu nông dân Việt Nam: tiểu nông mà thâm hiểm, quyết liệt trong đấu đá mà cũng mạnh mẽ đến lạnh lùng ở … trên giường. Bên dưới Hàm là một bà Son sống lay lắt như một cái bóng ma vật vờ nhờ “hương khói” ban ơn của Hàm, nhưng vẫn đẹp một cách lạ lùng…, hay một nhân vật Chu Văn Quềnh chán ngắt đến độ tác giả phải cho chết ngay từ chương đầu.

OK! Lai giai mãi mà vẫn chưa đề cập đến Thủy Hử. Thi Nại Am xây dựng Thủy Hử với 108 vị anh hùng hảo hán và hàng loạt các nhân vật phụ không phải hảo hán, có thể là những võ sư bình thường (ví dụ như giáo đầu Vương Tiến, thầy dạy võ của Cửu Văn Long Sử Tiến), hay các tham quan vô lại kiểu như Cao Cầu… Trong số 108 vị, chia ra làm hai nhóm là các Chánh tướng (Thiên cang – 36 vị) và các Phó tướng (Địa sát – 72 vị), với nhiều kiểu xuất thân: người thì là dòng dõi cao quý (ví dụ như Lư Tuấn Nghĩa, Quan Thắng…), người thì chỉ là loại đầu trộm đuôi cướp (Thời Thiên, Bạch Thắng…), quan lại triều đình (Tống Giang, Tiểu Cái, Lâm Xung, Dương Trí…), hay những anh tự do như Võ Tòng, Dương Thanh…

Nếu như đọc đoạn đầu, ta thấy Lỗ Trí Thâm xuất hiện quả là hảo hán bao nhiêu (vì bất bình đánh chết Trịnh Đồ để cứu cha con Cao Thúy Liên) thì sau đó lại thấy hảo hán này lại như chìm nghỉm vào trong biển “108 vị anh hùng hảo háo toàn các vị xuất thân cao quý”, và cho đến lúc chết mới để lại dấu ấn là việc tạc hóa viên tịch bên sông Tiền Đường. Một người được xưng tụng là “Trí Đa Tinh – Gia Cát tái thế – Ngô Dụng” tưởng như sẽ là một vị tuyệt thế thông minh, mưu trí hơn người nhưng lại vô cùng kém cỏi và tầm thường. Ngoài việc bày kế trộm châu báu từ tay Dương Trí rồi chạy lên Lương Sơn, ông ta cũng chẳng biết làm gì hơn. Cả bọn Tiểu Cái, Ngô Dụng khi thấy Lâm Xung bất bình trước chủ cũ là Vương Luân, chẳng những chẳng phơi bày gan ruột của hảo hán, lại còn chọc ngoáy (đừng nhầm là khích) khiến cho nội bộ lục đục, đẩy Lâm Xung vào chỗ giết bạn hữu (người ngoài có thể nhầm là Lâm Xung giết Vương Luân vì ham tiền bạc từ Tiểu Cái). Sau đó nghiễm nhiên tập đoàn Tiều Cái tự tiện chiếm toàn bộ ngôi đầu: Tiều Cái, Ngô Dụng, Bạch Thắng, Lưu Đường… Thế là cái hình tượng đẹp đẽ về một Tiều Cái ngạo nghễ, phải trái phân minh thành ra tan vỡ.

Cái thất bại lớn nhất của Thủy Hử trong việc xây dựng nhân vật là bác Thi đã không biết làm thế nào để tả cái “anh hùng” của các nhân vật, mà lại tai hại hơn, bác ta lại cứ đi mải miết mô tả chi tiết cái anh hùng của bọn “râu ria”, ví dụ như nào là Võ Tòng đả hổ trên đồi Cảnh Dương, rồi say rượu đánh Tưởng Môn Thần… và chìm vào hàng ngũ vai phụ, thì những bác chiếm quyền to như Tống Giang
, Tiều Cái, Lư Tuấn Nghĩa… chẳng có điều gì đáng so với những cái tên quá kêu của họ, nào là “Cập Thời Vũ”, “Ngọc Kỳ Lân”… Nếu như tác giả “dựng” lên một Tống Giang được anh hùng giang hồ hâm mộ đến khao khát được gặp (ví dụ như Võ Tòng chỉ mong được gặp một người trên đời là Tống Giang) thì lại chưa bao giờ ông ta mô tả Tống Giang đã làm những điều gì đáng để anh hùng hâm mộ. Thử điểm xem: ngoài việc báo tin cho Tiều Cái, cho tiền Diêm Bà để đổi lấy việc giết chết Diêm Bà Tích,… ta chưa từng gặp một việc gì Tống Giang làm để cứu nhân độ thế, tương xứng với cái tên “Cập Thời Vũ – cơn mưa đến kịp thời”. Ví dụ như so sánh với Lưu Huyền Đức trong Tam Quốc, nào là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương, cháu xa của Hiếu Cảnh hoàng đế (xuất thân Hán tộc), thì sau đó nào là khởi nghĩa đánh giặc Khăn Vàng, đào viên kết bái, làm quan huyện thanh liêm cứu dân, đối xử với các tướng thật bụng mà hết lòng, lại hết lòng dốc sức vì nhà Hán, có chí lớn… khiến cho đến Tào Tháo cũng gọi là “Anh hùng thiên hạ chỉ có sứ quân và Tháo này thôi”. Khi ông ta đã lập công danh vang dội rồi mà Ngô Quốc Thái của Đông Ngô vẫn phải qua việc gặp mặt, nói chuyện mới thực gọi ông ta là anh hùng. Có nghĩa là cái anh hùng của Lưu Bị không tạo ra qua tin đồn, mà chỉ tạo ra khi người ta tiếp xúc với ông ta. Ngược lại, Tống Giang được coi là “Cập Thời Vũ” (chẳng qua là được gán cho mà thôi), thế mà vì việc lôi kéo Tần Minh theo phía mình, đã cho người giả dạng Tần Minh đến đốt nhà, đánh thành, giết người… khiến cho quan huyện nhầm tưởng là Tần Minh, đem vợ con Tần Minh ra chém sạch, khiến cho Tần Minh từ chỗ đang là một người được triều đình trọng dụng lại thành ra tan cửa nát nhà. Mà việc này là do Tống Giang gây ra chứ chẳng phải do hôn quân bạo chúa nào. Và cái hình tượng Tích Lịch Hỏa Tần Minh cũng nhanh tróng sụp đổ, khi ngoan ngoãn đi theo Tống Giang, còn hớn hở mừng rỡ khi được dụ dỗ sẽ gả cho cô em gái trẻ đẹp của Hoa Vinh quên hẳn cái đau buồn vợ con vừa bị giết. Chỉ riêng cái chi tiết này đã khiến cho cái “Cập Thời Vũ” của Tống Giang đáng trở thành “Cập thời bão”.

Lại buồn cười hơn, một người như Tiểu Toàn Phong Sài Tiến, nuôi giấu các anh hùng hảo hán, ai cũng được ông ta cứu giúp thì lại bị coi là thua xa anh chàng Tống Giang.

Một điều hết sức sai lầm của Thi Nại Am là việc ông ta gán cho các vị hảo hán những cái tên quá kêu, kêu đến độ không tin nổi, và rồi những hành động chả có chút gì là anh hùng của họ khiến cái hình tượng đó bị sụp đổ. Nào là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ gặp ai giết người đó, hay nào là Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận sống trên sông Tầm Dương giết người bằng hai món “dao phay” và “bánh trần”, hay Đại Đao Quan Thắng chỉ ra trận có một lần, bị Lương Sơn dụ dỗ, thế là bỏ chủ theo lên Lương Sơn, rồi là vợ chồng Thái Viên tử Trương Thanh hàng ngày giết thịt người làm bánh bao nhân thịt người, một Dương Hùng nghe vợ quên bạn,… Có nghĩa là ở trong Thủy Hử, hình tượng nhân vật được hình thành qua cái mỹ danh được mặc định gán cho chứ không thông qua hành động thực, mà ta chẳng thấy được cái hảo hán thực sự ở đâu. Các nhân vật nào là quỳ lạy, nào là bái phục nhau chẳng qua là qua danh hiệu. Tống Giang được mặc định gắn cho cái “chân mệnh thiên tử”, mà chẳng ai thấy được cái “chân mệnh” đó ở đâu ngoài cái việc nghiễm nhiên 100% nhân vật khác nghe như nghe lời bố.

Nói tóm lại, xây dựng nhân vật là một thất bại thê thảm của Thủy Hử. Ngoài các nhân vật xuất hiện ở những đoạn đầu: Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Dương Trí, Hoa Vinh…, còn lại quá nửa các nhân vật còn lại được dựng lên một cách hết sức lãng nhách và hời hợt.

Và cái lớn hơn trong cái tinh thần ấy là “tứ hải giai huynh đệ”, một lời phỉnh phờ đáng phì cười, sẽ được phân tích ở lần sau!!

Tây Du Ký – Sự đấu tranh của con người với các thế lực thần quyền (Phần 5)

Tôn Hành Giả gặp Tam Tạng đầu tiên và đương nhiên Hành Giả trở thành đại đồ đệ của Tam Tạng rồi. Hơn nữa Hành Giả cảm cái nghĩa Đường Tăng đem lại tự do cho mình nên hết lòng hết dạ phò Đường Tăng sang Tây Thiên thỉnh kinh. Đừng ai nói rằng Tôn Hành Giả giác ngộ đạo Phật thành tâm cùng Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh nhé, tôi chẳng tin.

Hai thầy trò vừa kết nghĩa đã gặp trắc trở. Tôn Hành Giả vì bảo vệ thầy, chỉ khẽ huơ gậy đã tiêu diệt cả đám giặc cướp khiến Đường Tam Tạng nổi giận. Tam Tạng có cái tâm của nhà Phật, không nỡ sát sinh, nên không tán thành cho Hành Giả sát sinh thế, liền đùng đùng nổi giận mắng nhiếc và đuổi Hành Giả, còn Hành Giả thì cũng chưa hết cái ngang ngạnh xưa, đùng đùng nổi giận bỏ luôn về Hoa Quả Sơn nơi Đông Thắng Thần Châu. Và đây là cái hé mở để chúng ta thấy Tôn Hành Giả bị ép trở thành Phật chứ cũng chẳng phải tự thân gì, có nghĩa là anh chàng này cũng bị ép theo số phận mà thôi. Đức Phật Tổ tưởng chừng khai sáng cho con người ta tự mình giác ngộ theo đạo, nhưng cũng đã chuẩn bị trước cho Quan Âm Tôn giả 3 vòng kim cô để khống chế bất kỳ ai, và Tôn Hành Giả là đối tượng đầu tiên, và còn bị lừa đội chiếc vòng kim cô đó, để rồi “chiếc vòng như mọc rễ vào đầu, dù cậy cũng chẳng ra, dùng cả cần thiết bổng cậy cũng chẳng được“. Chỉ một bài thần chú khiến cho Tôn đau đầu nhức óc, không chịu nổi phải một lòng theo Đường Tăng. Ta hãy nhớ một câu chuyện giai thoại về Phật Tổ:

Có một nhà tu hành khoe với Phật Tổ rằng ông ta hành xác 30 năm tu hành để tu luyện bản lĩnh có thể qua sông với đôi chân trần mà không cần thuyền bè. Đức Phật mỉm cười “Sao ngươi u mê vậy? Sao ngươi mất những 30 năm tu hành trong khi ta qua sông chỉ mất có 3 xu tiền đò!“. Câu chuyện ấy muốn nói rằng đạo Phật chỉ hướng con người ta theo đạo theo tinh thần giác ngộ chứ không phải do sự cưỡng bách hay hành xác nhưng với Tôn, nó lại hoàn toàn ngược lại. Tôn đến với đạo Thích chẳng qua con đường giác ngộ cũng chẳng qua hai chữ “cơ duyên” mà lại qua con đường “cưỡng ép”.

Chuyến du hành về Tây phương của thầy trò Đường Tăng là còn bao gồm cả hàng loạt người bị ép theo cái guồng số phận ấy.

Sa Ngộ Tĩnh: Vốn là Quyển Liêm tướng quân trên Trời, vì chót làm vỡ chén ngọc của Vương mẫu mà bị đày xuống phàm trần, phải thành một cô hồn dã quỷ ở bên sông Lưu Sa. Lại một lần nữa, ta lại thấy cái thế giới “Thiên Đình” ấy sống vô tình làm sao. Một tướng quân, chỉ vì nỡ tay đánh vỡ một cái chén ngọc lưu ly, thế là lập tức bị đày. Ngọc Hoàng anh minh là thế, mà còn coi trọng cái chén ngọc hơn là một vị tướng. Chẳng thế mà ông ta bị thua một cách nhục nhã trước một chú thạch hầu chưa tu chọn kiếp, đơn giản là vì coi của quý hơn người. Không những thế, Ngọc Hoàng còn gia hình kinh khủng hơn, Sa Ngộ Tĩnh không những bị đày thành cô hồn dã quỷ ở Lưu Sa hà, mà còn định kỳ bị kiếm đâm đau đớn. Ngô Thừa Ân vẽ ra cái thế giới Thiên Đình như một sự mỉa mai cái thế giới vô tình ấy, như muốn kể với chúng ta một thế giới thực của vua chúa thời xưa: đầy rẫy bất công, vô tình, sống đầy câu nệ và trói buộc tự do của con người biết bao nhiêu. Và chỉ có những con người như Tôn Đại Thánh mới đủ dũng cảm để vùng lên đòi đạp đổ cái thế giới đó, nhưng rồi cũng không qua nổi bàn tay Phật tổ, như Nguyễn Du đã từng viết rằng “Ngàn năm ai có khen chi Hoàng Sào” (Truyện Kiều). Thực tế Sa Ngộ Tĩnh là nạn nhân của sự ra oai của Ngọc Hoàng mà thôi, sau khi thất bại nhục nhã dưới tay Tôn Đại Thánh, Ngọc Hoàng cũng muốn ra oai để át đi cái nhục nhã xưa mà thôi.

Trư Bát Giới: Nhân vật sống con người nhất trong năm thầy trò Đường Tam Tạng. Cái tên Bát Giới làm tôi liên tưởng đến hòa thượng Bất Giới trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, sống chẳng giới luật, yêu cả ni cô, vì ni cô mà đi tu, thì ta cũng bắt gặp một Bát Giới cũng “con người” như Bất Giới. Bát Giới vốn là Thiên Bồng nguyên soái, chỉ huy cả thủy quân của thiên đình. Bát Giới si mê nàng Hằng Nga xinh đẹp (đúng là chỉ có mấy người vô tình như Ngọc Hoàng thì mới không rung động trước sắc đẹp của nàng mà thôi), nhân lúc say rượu mò vào chỗ nàng định tòm tem. Nhân đây chúng ta có chút chuyện vui về vụ này.

Hôm đó Ngọc Hoàng vừa vui với cung nữ ra thì thấy Hằng Nga – Miss Thiên Đình khóc thút thít xin gặp, nước mắt nàng chảy dài trên gò má làm khuôn mặt vốn xinh như hoa của nàng càng trở nên kiều diễm. Nàng tâu:

– Muôn tâu bệ hạ, thần thiếp có chuyện muốn tâu. Ba ngày trước (ta nhớ là một ngày trên trời bằng 1 năm dưới hạ giới), thiếp đang lơ mơ ngủ vì đang phê thuốc, tự nhiên thấy bóng một người cao to, bụng bự chui vào phòng thiếp. Thiếp biết nó là thành phần không đứng đắn nhưng cứ để yên xem nó làm gì.

– Nó làm gì, nó làm gì? Ngươi kể nhanh lên, ta vừa xong vài làm vài chầu, buồn ngủ quá – Ngọc Hoàng ngáp dài và giục!

– Dạ! Anh Hoàng đừng có hối, chuyện này nó liên quan đến cả đời em!

– Được rồi, nào em kể tiếp đi nào!

– Dạ! Nó nhẹ nhàng mở cửa lẻn vào phòng thiếp, nó tiến về phía giường thiếp và ngồi xuống cạnh thiếp, cầm lấy bàn tay lạnh giá của thiếp. Thiếp biết nó là thành phần không đứng đắn nhưng cứ để yên xem nó làm gì.

– Trời! Nó làm gì, sao người Andi Câu giỏi thế. Ngươi có biết có bao nhiêu con bạc đang đợi ta vào chiến nốt không? Đang dở ván tá lả!

– Dạ! Chuyện này liên quan đến cả đời em! Anh đừng có hối!

– Thôi nào bé cưng, kể nhanh lên nào…

– Bẩm vâng! Nó cầm tay thiếp, lại đưa tay vuốt má, rồi cầm vào bàn chân của thiếp.. hic hic! Ôi, chết mất! Thiếp biết nó là thành phần không đứng đắn nhưng muốn bắt quả tang nên cứ để yên xem nó làm gì..

– Thôi nào, ngươi có thôi ngay cái điệp khúc đó không? Nhanh lên!

– Dạ dạ! Rồi nó khẽ cởi áo thiếp, thiếp cứ nằm yên để bắt quả tang xem nó làm gì, nó vừa cúi xuống hôn thiếp, thò tay xuống định kéo quần thiếp ra, thiếp định để yên để bắt quả tang, nhưng không ngờ lúc đó con ranh Thỏ Ngọc đi lạc vào phòng làm nó sợ quá bỏ dở chạy mất. Thiếp lôi lại không được, nhìn kỹ ra hóa ra là Thiên Bồng Nguyên Soái.. hic hic… Thiếp xin…

– Ngươi muốn ta trừng trị tên dâm tặc này chứ gì? Người đâu…

– Dạ thiếp đâu nỡ thế! Thiếp chỉ muốn nhờ Ngọc Hoàng phái anh Na Tra đi tìm Nguyên Soái về đây, hỏi xem mấy hôm nay ngày nào thiếp cũng mở cửa đợi mà sao anh ấy không dám đến nữa!!!

Ặc ặc!!!

Ngọc Hoàng nghe thế cú lắm, té ra thằng Thiên Bồng này nó cao thâm hơn mình! Bố mày không tha nữa, cho mày làm kiếp bẩn thỉu!

Trở lại với nhân vật Trư Ngộ Năng của chúng ta. Phạm tội tày đình với nàng Hằng Nga xinh đẹp khiến chàng ta bị đầu thai thành lợn. Cách đầu thai một cách hết sức ngớ ngẩn của Ngọc Hoàng khiến cho anh chàng này trở thành một nhân vật hết sức “con người”: ham ăn, ham uống, mê cái đẹp, thích nhàn nhã, thích hưởng thụ, lười lao động, ngại vượt khó. Đó cũng là những hình ảnh tiêu biểu của nhiều con người mà Ngô Thừa Ân lấy Trư Bát Giới làm đại diện. Vì thế mà việc đạt cái mục đích cuối là trở thành một đệ tử phật gia là một cố gắng lớn cho anh chàng này và cũng là hoàn toàn phù hợp với anh chàng này: trở thành Tịnh Đàn Sứ giả, như một sự hưởng thụ đầy thoải mái sau một chuyến đi dài vất vả.

Nếu ta xem xét kỹ, ta thấy rằng hai nhân vật Bát Giới và Sa Tăng hoàn toàn thua xa Tôn Hành Giả, có nghĩa là nếu có đi tu tiên, thì hai anh chàng này cũng chỉ lên đến bậc thần thánh là hết cỡ, còn Tôn Hành Giả mang trong mình cốt tiên (Thiên đình gọi Tôn Đại Thánh là Thái Ất Tôn Ngộ Không) có thể tự mình vươn đến đỉnh cao giác ngộ và đạt thành quả cao. Ta hãy nhớ là trong các bậc tu hành Lão giáo thì Tiên là bậc cao nhất, tự mình định đoạt số phận của mình, không còn trong vòng luân hồi (cũng giống như vươn lên hàng Phật trong Phật giáo). Còn thấp hơn là Thần và Thánh, xuất phát từ 2 hạng người: những người nhân gian có đức chết được phong thần thánh, hay nhữngngười tu tiên chưa đủ đức hạnh, họ đều bị trở thành thần thánh để cho nhà trời sai bảo, hay là một dạng ôshin cho Ngọc Hoàng mà thôi. Và sau này, Tôn Hành Giả trở thành Phật, còn hai anh chàng kia chỉ lên hàng La Hán (như Sa Tăng) và Sứ giả (Bát Giới) là hết cỡ.

Lại một anh chàng khác bị ép vào cái số phận đó là Bạch Long Mã, hay chú ngựa mà Đường Tăng vẫn tọa. Anh ta nguyên là Thái tử của Tây Hải Long vương Ngao Thuận, vì say rượu làm đổ đồ châu báu mà cũng bắt tội, phạt treo ngoài Tây Hải, và cuối cùng cũng phải mang thân rồng trong xác ngựa, chở Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, cùng bị cuốn vào vòng xoáy số phận…

(Còn nữa…)

Tây Du Ký – Sự đấu tranh của con người với các thế lực thần quyền (Phần 4)

Thế là Tôn chính thức được “giác ngộ cách mạng”. Năm trăm năm cô quạnh dưới Ngũ Hành Sơn thật bằng cả 500 ngàn năm với Tôn Đại Thánh. Ngài cứ âm thầm nằm đó, đói thì ăn đạn sắt, khát thì uống nước rỉ đồng, mặc cho thời gian lặng lẽ trôi đi. Tôi đã từng tưởng tượng ra cảnh Tôn Đại Thánh lặng lẽ khóc trong mưa, nhớ những ngày tháng tiêu dao hùng tráng của mình. Không hiểu Tôn Đại Thánh ân hận vì những hành động chống đối với ông Trời của mình, hay ngài hiểu ra rằng, mình có cố cũng không thoát khỏi số phận? Có lẽ vế thứ hai nhiều hơn.

Bởi thế mà Tôn liền đồng ý với Quan Thế Âm Bồ Tát sẽ phò trợ người lấy kinh sang Tây Thiên bái Phật, tu thành chính quả. Và từ đây, Tôn Đại Thánh đã chết rồi, mà thay vào đó là một Tôn Hành Giả, đang trên đường tu hành để trở thành một Đấu chiến thắng Phật! Tôi từng đọc một bình luận về Tây Du Ký trên Thư viện Hoa sen, nói rằng chi tiết vô lý nhất của Tây Du Ký là một Tôn Hành Giả với cân đẩu vân bay nháy mắt tới mười vạn tám ngàn dặm mà mất tới mười ba năm để phò Tam Tạng từ Đại Đường sang Tây Trúc. Có lẽ những người bình luận chưa hiểu hết cái triết lý tu thành chính quả, đó là Phật Tổ buộc Tôn Ngộ Không phải cùng với Đường Tăng vượt qua 81 nạn (do chính tay các thế lực của Phật tổ xếp đặt) để thử thách họ, nếu không hóa ra trở thành Phật quá đơn giản. Từ đây, chúng ta không gọi là Tôn Ngộ Không hay Tôn Đại Thánh, mà hãy gọi là Tôn Hành Giả – một người đang bị chìm dần vào số phận đã được định sẵn.

Quan Âm Tôn giả nhận lời Phật tổ sang Đại Đường tìm người lấy kinh về. Ta nói lại một chút, thực ra trước thời kỳ đó, Phật giáo đã du nhập vào “Đông thổ Đại Đường” rồi, nhưng đó là Phật giáo Tiểu thừa. “Tiểu Thừa” có nghĩa là “cỗ xe nhỏ”. Tiểu thừa được một số đại biểu phái Đại thừa thường dùng chỉ những người theo “Phật giáo nguyên thuỷ”. Tiểu thừa tập trung tuyệt đối vào con đường đi đến giải thoát. Các lí luận triết học không đóng vai trò quan trọng – chúng thậm chí được xem là trở ngại trên đường giải thoát. Tiểu thừa phân tích rõ trạng thái của đời sống con người, bản chất sự vật, cơ cấu của chấp ngã và chỉ ra phương pháp giải thoát khỏi sự Khổ. Tất cả các trường phái Tiểu thừa đều có một quan điểm chung về sự vật đang hiện hữu: khổ có thật, phải giải thoát khỏi cái Khổ. Giải thoát khỏi luân hồi, thoát khỏi sự tái sinh và đạt Niết bàn là mục đích cao nhất của Tiểu thừa. Muốn đạt được mục đích này, hành giả phải dựa vào sức mình, xa lánh thế gian. Vì vậy Tiểu thừa quan niệm phải sống viễn li, sống cuộc đời của một kẻ tu hành. Đối với Tiểu thừa, cuộc sống tại gia không thể nào đưa đến sự giải thoát. Hình ảnh tiêu biểu của Tiểu thừa là La Hán, là người dựa vào tự lực để giải thoát. Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng, phái Đại Thừa lại dùng từ “Tiểu Thừa” như một sự lăng mạ và chỉ trích.

Ngày xưa, khi đa số đệ tử của mình đều đã đắc quả La Hán, Đức Phật bắt đầu giảng giải đạo lý cao siêu hơn, sau khi tự cứu mình rồi thì hãy quay lại cứu độ chúng sinh, tức là làm bồ tát. Tức là đi từ tuần tự từ thấp lên cao. Trong kinh Phật có câu “hỡi các đệ tử của ta, các con hãy chia ra, hãy đi hết các hang cùng ngõ hẽm, đem giáo pháp mầu nhiệm để phổ độ chúng sinh”. Đại Thừa ngày nay một mực chê bai Tiểu thừa là ích kỷ, cũng chỉ vì trong số họ chưa ai tu hành đắc đạo, xóa bỏ Bản Ngã. Nếu không, họ đã biết được: khi Bản Ngã (cái “tôi”, cái “ta”, cái vị kỷ) bị diệt thì con người ta không còn ích kỷ nữa, ngược lại rất Từ Bi, xả thân cứu đời. Ngày nay, trước sự tràn lan của các tôn giáo cực đoan, lấy việc giết người làm mục tiêu, thì những tôn giáo tích cực trong đó có đạo Phật càng phải đoàn kết hơn. Không nên chia bè phái, tranh giành hơn thua. Họ nên hiểu rằng: chính Bồ Tát của Đại Thừa cũng phải tự hoàn thiện mình trước rồi mới có tư cách phổ độ chúng sinh mà để tự hoàn thiện thì phải tu theo giáo pháp nguyên thủy, cái gọi là Tiểu thừa. Vì thế việc phân chia hai cái “thừa” như thế là thừa.

Và thế là, Trần Huyền Ttrang, một con người, sinh ra đã theo Phật, dốc lòng theo sự chỉ bảo của Quan Âm Bồ Tát quyết một lòng sang Tây Phương bái Phật, đem kinh Đại Thừa về khai sáng cho Đại Đường, cứu nhân độ thế, cùng giúp chúng sinh thoát khỏi bể khổ.

(Còn nữa…)

Tây Du Ký – Sự đấu tranh của con người với các thế lực thần quyền (Phần 3)

Dĩ nhiên, ai cũng biết chắc Ngọc Hoàng chẳng thể bỏ qua cái tội khi quân phạm thượng như thế của Tôn. Ngay lập tức, 18 vạn thiên binh thiên tướng dẫn đầu là cha con Thác Tháp Thiên Vương Tiểu Cái (À nhầm, Lý Tịnh – cứ nhầm sang Thủy Hử), Na Tra Tam Thái tử, vây thành “thiên la địa võng” quanh Hoa Quả sơn, đến mức một “con ruồi cũng khó mà bay lọt”. Lần này Tôn Đại Thánh nhà ta được dịp trổ tài.

Chỉ với một cần thiết bổng, với 72 phép thần thông biến hóa, khi thì Đại Thánh biến thành 3 đầu 6 tay (và thuật ngữ “ba đầu sáu tay” chỉ những kẻ tài năng đầy mình), khi thì dùng một dúm lông nhai nát, phun ra biến thành trăm nghìn Tôn Đại Thánh đánh cho mười tám vạn thiên binh thiên tướng ôm đầu chạy tan tác. Ngọc Hoàng cay cú lắm mà chưa biết làm sao. Chẳng lẽ ta là đấng chí tôn, lại thua một con yêu hầu hay sao? Và thế là khi mà Quan Thế Âm Bồ Tát tiến cử cháu ngoại Ngọc Hoàng là Nhị Lang thần Dương Tiễn, Ngọc Hoàng lập tức gật đầu. Ta hãy nói một chút về chuyện này.

Nhị Lang thần tên là Dương Tiễn, vốn là con của em gái Ngọc Hoàng, em gái Ngọc Hoàng lấy người phàm sinh ra Dương Tiễn bị coi là phạm luật trời. Dương Tiễn sinh ra có 3 con mắt, cũng học nghệ được thất thập nhị huyền công như Đại Thánh, sử dụng cây đao ba mũi hai lưỡi với con Hạo thiên khuyển chuyên dùng để … “cắn trộm”. Vì mẹ của Nhị Lang phạm luật trời nên dù Nhị Lang (gọi Ngọc Hoàng bằng cậu) có tài phép đến đâu, lập bao công trạng trước đây, cũng không được Ngọc Hoàng coi trọng, chỉ là một ông thần nhỏ nhoi nơi trần thế, chẳng qua Ngọc Hoàng bị lâm vào thế bí, phải hạ mình nhờ ông cháu mà trước đây mình vẫn coi rẻ mà thôi. Thế mới thấy, ông Trời nắm trong tay sinh mệnh của cả muôn loài cũng chẳng sống có tình là mấy.

Dương Tiễn là đối thủ đáng kể nhất của Đại Thánh, đánh nhau với Đại Thánh một trận kinh thiên động địa, hai bên ngang tài ngang sức nhau, chẳng ai hơn được ai, biến hóa linh tinh, nếu cứ tiếp tục chắc phải mỏi mệt. Ngọc Hoàng nhân lúc Ngộ Không và Dương Tiễn còn mải choảng nhau, sai Thái Thượng Lão quân dùng chiếc vòng ném thẳng vào đầu Tôn, làm Tôn ngã quay đơ, thế là bị thiên tướng bắt sống. Đáng cười cho ông Trời oai linh, có trong tay ngàn vạn vị tiên, hàng vạn thiên binh thiên tướng, không ai đánh nổi một chú khỉ, phải giở thủ đoạn hạ lưu đánh lén với Tôn. Tất nhiên đã đánh nhau thì ai thắng thì hơn thôi. Nhưng đảm bảo rằng, vì thế mà Tôn vốn không phục cái ông Giời ấy thì nay càng bất phục hơn.

Ngọc Hoàng đem Tôn về điện Linh Tiêu, dùng các nhục hình để tiêu diệt Tôn (thật không ngờ ông Trời có lắm thủ đoạn nhục hình thế): nào đao chém (nhưng không đứt), lửa thiêu (chẳng cháy), sét đánh (không chết)…, có lẽ chẳng còn cái hình phạt tàn khốc nào mà ông Trời chưa giở ra với Tôn. Tôi thấy nực cười cho ông Giời, ông quên mất một điều, Tôn đã ra ngoài luân hồi (đã xóa tên khỏi sổ sinh tử), thì làm sao giết chết được Tôn, lại đem bao hình phạt tàn khốc với Tôn như thế, thật chẳng xứng với câu “Ông Trời vốn có đức hiếu sinh”. Thật đáng thương cho Ngọc Hoàng.

Lại còn kinh dị hơn, Ngọc Hoàng nghe Thái Thượng Lão quân bảo đem Tôn đi luyện đan trong lò bát quái thì gật đầu liền. Chẳng hiểu Ngọc Hoàng có chút tình người nào không? Dù gì Tôn cũng là một sinh linh, Ngọc Hoàng nỡ lòng nào để Lão quân luyện Tôn thành một viên linh đan, rồi ung dung bỏ vào miệng mà nhai, có khác gì ông ta đi ăn thịt chúng sinh không?

Thật may cho Ngọc Hoàng, Lão quân nung Tôn đến 49 ngày mà không chết, đơn giản vì vứt Tôn vào cung Tốn, Tốn là Gió, vì thế Tôn chỉ bị sức nóng cộng với khói thổi hun mắt, biến con mắt đen láy thông minh thành “mắt lửa ngươi vàng” mà thôi, không những chẳng giết chết Tôn, mà còn cho Tôn đôi mắt thần kỳ nhìn thấu mọi việc. Lò Bát quái của Lão quân là một lò chuyên để luyện đan, có cấu trúc theo kiểu 8 cung của Bát quái, gồm các cung mang tên như các quẻ bát quái trong Kinh dịch. Nói thêm chút về 8 quẻ này (cho oai tí) gồm: Càn (), chỉ Trời, hay theo hướng là Tây Bắc; Đoài (), chỉ Đầm, hồ, hay chỉ hướng Tây; Ly (), tức là Lửa, chỉ hướng Nam; Chấn (), tượng cho Sấm, chỉ hướng Đông; Tốn (), nghĩa là Gió, chỉ hướng Đông Nam; Khảm (), chỉ Nước, định hướng Bắc; Cấn (), nghĩa là Núi, chỉ hướng Đông Bắc; Khôn (), nghĩa là Đất, chỉ hướng Tây Nam. Còn nếu tám cửa trong trận Bát môn Kim tỏa của Gia Cát Võ Hầu thì gồm có Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai, Hưu. Nói chung cái này đọc nhiều chỉ tổ chóng mặt váng đầu, dễ đi vào tẩu hỏa nhập ma, nói tí cho có vẻ oai trí thức tí thôi.

Rõ ràng là cả Lão quân, một vị đứng đầu trong các vị tiên cũng làm ăn cực kỳ tắc trách, chỉ biết tóm yêu hầu mà ném vào lò, còn nó vào đến đâu thì không quan tâm, để nỗi không những không giết nổi Tôn Đại Thánh, trái lại còn làm cho Đại Thánh còn kinh hơn, đạp tung lò Bát quái, nhảy ra ngoài với mắt lửa ngươi vàng, trừng trừng nhìn Ngọc Hoàng làm Ngọc Hoàng rụng rời hết vía. Lúc này thì có mà đến mười ông cháu Dương Tiễn Nhị Lang thần của Ngọc Đế cũng đành dùng phép bó tay chấm com chứ làm gì nổi Tôn Đại Thánh nữa. Tôn Đại Thánh mặc sức đánh cho Thiên đình tan nát, Ngọc Hoàng oai vệ trước đây vẫn khinh thường Tôn là một con yêu hầu thì cũng phải chui vào gầm bàn mà run, rồi đành thỉnh Phật tổ Như Lai sang trợ giúp.

Phải thừa nhận rằng Phật Tổ đánh đòn cao tay hơn hết, không chơi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với Tôn Đại Thánh (vì có lẽ Đức Phật cũng hiểu trò này khó mà đấu với Tôn một cách dễ dàng được), thế là kích vào tích tự kiêu của Tôn, thách Tôn dùng một cân đẩu vân đi ra khỏi lòng bàn tay của Phật tổ. Ta sẽ nói chi tiết về việc này. Một vụ án thiên cổ, bị Phật Tổ ỉm đi để bắt Tôn thành đệ tử của mình. Chi tiết như sau:

Theo sách vở mà ta vẫn học, người con người lần đầu tiên biết Trái đất tròn cũng vào tới cỡ thế kỷ 15 gì đó (đại khái thế), tức là sau Tôn hàng vài ngàn năm. Nếu ta suy diễn chút theo Tây Du Ký, thì không phải thế, chính bác Phật Thích Ca Mâu Ni mới gọi là người biết Trái Đất tròn để lừa chú Tôn của chúng ta. Phân tích kỹ nhé!

Lúc Tôn theo Đường Tăng đi thỉnh kinh, thì đó là thời đại trị vì của Đường Thái Tông (đầu thế kỷ 7 sau CN), sau khi bị đè dưới Ngũ Hành sơn đúng 500 năm. Như vậy, lúc Tôn đang choảng nhau với Phật Tổ là đầu thế kỷ thứ 2, là thời đại nhà Đông Hán, lúc đó trung tâm của Trung Hoa là kinh đô Lạc Dương, ở vĩ độ khoảng 35 độ Bắc. Cứ vĩ độ đó ta kích lên 18 tầng trời, tức là tận cùng bầu khí quyển, tính theo cả bán kính trái đất là 6370 km. Ta sẽ tính đươc chu vi đường tròn kinh tuyến qua vị trí 18 tầng trời đúng bằng quãng đường một cân đẩu vân – mười vạn tám ngàn dặm (chú ý, 1 dặm Tàu khi đó chỉ là 1/3 km thôi, tức là một cân đẩu vân tức là 36000 km). Thế nghĩa là thế nào nhỉ? Bác Phật Tổ nhà ta để Tôn Đại Thánh lên lòng bàn tay, thách Tôn một cân đẩu vân ra khỏi tay. Có mà đến mười Tôn Đại Thánh cũng thế thôi, nhắm mắt nhắm mũi bay vèo cái, theo đúng 1 đường tròn lại trở lại vị trí cũ. Bác Phật nhà ta cứ ung dung ngồi khểnh chân uống trà đá đợi hết đúng 1 lượt Tôn lại tự quay lại chỗ cũ, thế là tóm thôi. Căn bản bác Phật cũng cú Tôn đái bậy vào tay, nên lập tức đè luôn Tôn xuống Ngũ Hành Sơn và lại dùng đạo bùa với 6 chữ “Úm ma la, bát minh hồng” đính lại (kiểu như các bác nhà ta niêm phong bây giờ ấy), thế là Tôn đành nằm đó 500 năm, đói thì ăn đạn sắt, khát thì uống nước rỉ đồng – Thực ra câu chuyện vui này tôi đã từng nêu ra cách đây 6 năm, viết trên nội san Khoa Vật lý, thành câu chuyện cười ngộ nghĩnh . Đúng là nhất nhật tại Ngũ hành sơn, thiên thu tại ngoại. Nếu muốn hiểu tâm trạng Tôn Đại Thánh lúc đó, hãy nghe bài hát trong phim Tây Du Ký của đạo diễn Dương Khiết, cực kỳ tâm trạng và rất hợp với tâm trạng của Tôn hồi đó!

Cuộc chiến giữa Tôn và ông Trời chấm dứt, dù Tôn có gây ra một cuộc long trời lở đất, khiến cho cả ông Trời phải sợ hãi, nhưng rốt cục, Tôn cũng chẳng thoát khỏi số phận. Tuy nhiên, tôi vẫn ấn tượng mãi với người anh hùng này, nhất là khi anh ta ưỡn ngực trước Ngọc Hoàng mà trả lời rằng “Có Lão Tôn đây“. Vâng, cái đó thể hiện khát vọng tự do và muốn thể hiện mình!

Và rồi, Tôn bắt đầu rơi vào số phận, cùng với cả 4 thầy trò Đường Tăng bắt đầu tìm đến số phận để thành Phật, xin mời xem tiếp ở những bài viết sau!!

(Còn nữa)

Tây Du Ký – Sự đấu tranh của con người với các thế lực thần quyền (Phần 2)

Cái gì đến rồi cũng phải đến, nó đến nhanh đến mức mà ngay cả Ngọc Hoàng, người nắm trong tay số phận muôn loài cũng không hề ngờ tới, Ngọc Hoàng lòi ngay cái đuôi cho người tài ăn bánh phỉnh. Ngộ Không sau khi giao du trên trời, nhanh tróng biết được chức Bật Mã Ôn là một chức quan không những không còn thể nhỏ hơn nữa, mà còn chẳng có phẩm hàm gì, chỉ đơn thuần là một tên chăn ngựa mà thôi liền tức khí “bỏ của chạy lấy người“, bỏ về Thủy Liêm động, Hoa Quả sơn tự xưng “Tề Thiên Đại Thánh” – vị thánh ngang bằng với Trời, ngang nhiên dựng cờ giữa trời khiến Ngọc Hoàng không khỏi tức giận. Có lẽ Ngọc Hoàng tự ái vì không ngờ ta ban ân huệ thế mà nó còn không thèm, còn ngang nhiên dựng cờ đòi ngang hàng với ta. Thế là dù Thái Bạch Kim Tinh có can đến đâu, Ngọc Hoàng cũng đùng đùng nổi giận bắt cha con Thác Tháp Thiên vương Lý Tịnh, Na Tra Tam Thái tử cùng Thiên lôi và 18 vạn thiên binh xuống bắt yêu hầu.

Dĩ nhiên, cha con nhà Tam Thái Tử Na Tra đâu phải là đối thủ của Ngộ Không. Nếu như ngày xưa Na Tra tung hoành với Hỗn Thiên lăng, với Càn khôn quyện…, thì nay Na Tra cũng thất bại trước một yêu hầu với một cần thiết bổng và thất thập nhị huyền công. Cha con Lí Tịnh và 18 vạn thiên binh thất bại thảm hại làm Ngọc Hoàng giật mình. Ngọc Hoàng đành xuống nước bãi binh, vời Tôn lên làm Tề Thiên Đại Thánh. Vậy là Ngọc Hoàng oai vệ lần thứ nhất thất bại trước Tề Thiên Đại Thánh. Và đây cũng là bước ngoặt dẫn đến cái cuộc “Đại náo thiên cung” long trời lở đất của Tôn Đại Thánh.

Tôn Ngộ Không lên làm Tề Thiên Đại Thánh, vốn tính khỉ hiếu động, liền dong chơi khắp chốn Thiên đình, từ làm quen đến Thái Thượng Lão quân, đến Thái Ất chân nhân, kéo sang cùng Nguyên Thủy Thiên Tôn, rồi đi đến kết thân hết các thiên thần thiên tướng và có lẽ ai cũng nể mặt Tôn Đại Thánh cả. Và Ngọc Hoàng lại giật mình. Có lẽ ông ta cũng giật mình khi thấy Tôn Ngộ Không cứ giao du thế, phải chăng ông ta sợ Tôn Ngộ Không tài phép đầy mình, sẽ đi kết bè đảng, rồi có ngày nào đó đám thần tiên dưới quyền ông ta sẽ nghe lời Tôn Đại Thánh, chẳng thèm phục tùng một Ngọc Hoàng bất tài như ông ta nữa? Biết đâu đấy, có mà “Trời mới biết được” Ngọc Hoàng nghĩ gì.

Chẳng thế mà một thiên thần ngu dốt tâu rằng “Tôn Đại Thánh nhàn rỗi ngày ngày giao du thế, tất sinh họa. Xin hãy cho ra trông coi vườn bàn đào!”, Ngọc Hoàng gật đầu ngay tắp lự. Đúng là thiên thần đã ngu dốt rồi, Ngọc Hoàng cũng chẳng sáng suốt hơn. Tôn là giống khỉ, cho khỉ coi đào có khác gì đem mỡ đặt trước miệng mèo, đem dê lùa miệng hổ, không cần bảo nó cũng chẳng để yên. Và thế là bi hài kịch bắt đầu. Được Thổ địa quảng cáo toàn đào xịn cả, Tôn lập tức chén đẫy làm tan hoang vườn đào khiến cho các Tiên nữ của Tây Vương mẫu đến lấy đào chỉ được có 1 ít đào ương ương xanh xít mà chẳng hiểu ra làm sao.

Hay khoan nói việc này, hãy nói tiếp chuyện về Tây Vương mẫu. Năm đó, Tây Vương mẫu mở tiệc bàn đào, chiêu đãi toàn thể chư tiên, thánh thần. Danh sách khách mời có đủ mặt mọi người, thật chẳng ngờ chẳng thèm mời đến Tề Thiên Đại Thánh. Thật là hết biết. Ngọc Hoàng là vua lạnh lùng đã đành, Tây Vương mẫu cũng như một vị hoàng hậu lạnh lùng, coi khinh luôn cả yêu hầu, chẳng thèm mời Tôn. Thế là Tôn đùng đùng nổi giận, làm cho bầy tiên nữ và thần thánh phục vụ cứng đơ, một mình đánh chén cỗ bàn tan hoang, uống rượu say bét nhè, lại còn đi lạc lên cung Đâu Suất của Thái Thượng Lão quân, lôi hết đống hồ lô linh đan mà Lão quân vất vả luyện được đem ra nhắm rượu, cứ như dân ta đem lạc rang uống rượu, còn gật gù “chẳng khác gì đậu phộng rang cả“, thật là tức cười. Với các thần tiên khác, được một viên linh đan của Lão quân là thuốc tiên quý báu, còn với Tôn, cũng chỉ như lạc rang thôi, chỉ khổ thân Lão quân vất vả.

Thực ra cái việc mà Tôn phản kháng lại sự “keo kiệt” của Vương Mẫu cũng thể hiện một cái văn hóa của dân Trung Hoa (cũng như dân Việt ta), bên cạnh sự cay cú vì bị coi rẻ, còn là sự bực mình vì miếng ăn (coi việc mời đi ăn cỗ là to tát mà, không được mời là kém miếng khó chịu lắm). Cho nên nói phản kháng của Tôn với các lề luật Thiên đình cũng là sự phản kháng của con người cũng một phần xuất phát từ điều đó.

Và thế là, cuộc chiến long trời lở đất của Tôn với Ngọc Hoàng bắt đầu ….

(Còn nữa)

Tây Du Ký – Sự đấu tranh của con người với các thế lực thần quyền (Phần 1)

Bài này viết theo lời hứa với một người bạn, sau khi đọc một bài trên blog của người đó viết về Tây Du, và cũng là chút cảm nhận của tôi về Tây Du Ký – một trong những cuốn truyện mà tôi rất mê, đọc gần như thuộc lòng nó từ khi còn bé xíu. Bản thân tôi, và tôi chắc rằng còn rất nhiều người khác không thể quên được cái cảm giác háo hức của đầu những năm 90, khi phải đi xem nhờ TV để xem phim Tây Du Ký (đạo diễn Dương Khiết) lần đầu tiên phát trên màn ảnh truyền hình VN (khi đó quê tôi còn nghèo lắm, TV hiếm vô cùng). Hi vọng mọi người có cùng sở thích đọc Tây Du như tôi cùng vào đây bình luận.

Tây Du Ký là cuốn tiểu thuyết thần thoại của nhà văn Ngô Thừa Ân, cùng với Tam Quốc, Sử ký Tư Mã Thiên, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng là những tác phẩm văn học bất hủ, được xếp vào hàng ngũ những cuốn sách hay nhất của nhân loại. Thế giới chính của Tây Du là thế giới thần tiên của Đạo Lão và thế giới hư không của Đạo Phật, xen kẽ với Trung Hoa thời đại trị vì của Đường Thái Tông, lấy trên gốc câu chuyện nhà sư Trần Huyền Trang từ Đại Đường sang Ấn Độ thỉnh kinh (thực chất là học Phật giáo Đại Thừa) về truyền bá ở Trung Hoa (lúc đó mới chỉ có giáo lý Tiểu Thừa).

Tây Du Ký là một thế giới thần tiên cực kỳ phong phú, với đủ mặt các vị thần tiên trong thế giới thần linh của Trung Hoa, đủ mặt các vị Phật trong Phật giáo Trung Quốc. Và nhân vật chính, Tôn Ngộ Không, đứng trung tâm trong cái thế giới ấy với cái danh hiệu cực kỳ ngạo nghễ – Tề Thiên Đại Thánh. Hình ảnh Mỹ hầu vương Tôn Ngộ Không tay cầm cần thiết bổng nặng “mười vạn ba ngàn năm trăm cân“, mang trong mình “thất thập nhị huyền công” – 72 phép thần thông biến hóa, cùng với cân đẩu vân trong nháy mắt đi tới “mười vạn tám ngàn dặm” (sáng chơi Bắc Hải, chiều ở Thương Ngô), tung hoành từ Âm tào địa phủ của Diêm Vương đến điện Linh Tiêu của Ngọc Hoàng, đánh cho 18 vạn thiên binh thiên tướng của Ngọc Hoàng kinh hồn bạt vía, khiến cho Ngọc Hoàng oai linh phải chui xuống gầm bàn mà kêu cứu như một tượng đài tiêu biểu của cuộc đấu tranh chống lại định mệnh của con người. Nhưng rốt cục, Ngộ Không cũng không thoát khỏi định mệnh đã định sẵn – trở thành một “Đấu chiến thắng Phật” – một vị Phật.

Ba lần đánh Bạch Cốt Tinh

Tôn Ngộ Không là một chú khỉ đá, do tảng đá hấp thụ tinh khí trời đất sinh ra ở Hoa Quả sơn, đất Đông Thắng thần châu. Từ khi mới ra đời, chú khỉ này đã lãnh đạo cả bầy khỉ xông vào động Thủy Liêm – đi vào đi ra không xây xước mình mẩy – sống tiêu dao trong thế giới yên bình nơi Hoa Quả sơn – làm một Mỹ Hầu Vương. Nhưng rồi, chú khỉ đã nhận ra “rồi không ai thoát khỏi cái chết, chẳng ai là không bị lão Diêm Vương cai trị cả“. Phải làm sao đây? Mỹ Hầu Vương đã lênh đênh vượt biển, tìm đến nơi Bồ Đề tổ sư cố công tu luyện học phép tiên với ham muốn trường sinh bất tử, chống lại sự quản cố của Diêm Vương. Cái tên Tôn Ngộ Không là do Bồ Đề sư tổ đặt – chú khỉ này có dáng như trẻ con nên có họ là Tôn, cái tên Ngộ Không mang ý nghĩa giác ngộ. Trong bất kỳ bài học nào, Ngộ Không cũng hỏi “Phép này có trường sinh được không?“Và rồi, biết chắc số phận long trời lở đất sau này của Ngộ Không, Bồ Đề tổ sư vẫn truyền cho Tôn “thất thập nhị huyền công” cùng với cân đẩu vân đi mười vạn tám ngàn dặm bởi chỉ có người đệ tử này hiểu được cái chân lý huyền diệu mà thôi. Bồ Đề tố sư đuổi Ngộ Không ra khỏi sư môn với cái cớ “khoe khoang đạo học” thực ra là một cái cớ hợp lý thôi, ông thừa hiểu rằng Tôn Ngộ Không không thuộc về thế giới tu tiên, và ông muốn người đệ tử này quay về nơi mà anh ta đi, chỉ với yêu cầu “Ngày sau gây ra chuyện gì thì không được nhận mình là đệ tử của Bồ Đề tổ sư“.

Ngộ Không trở về Hoa Quả sơn, cùng bọn Ngưu Ma Vương kết nghĩa anh em, đầu tiên là xuống Long cung xin binh khí. Ta hãy chú ý chi tiết này, đọc vội vàng, người ta thường bảo Tôn Ngộ Không dùng sức mạnh đoạt gậy thần ở Long cung, nhưng không phải thế. Đoạn này còn cho thấy Đông Hải Long Vương – một vị thần cai quản sông biển tráo trở thế nào. Ban đầu, Tôn Ngộ Không xin Long Vương binh khí, và mọi thứ binh khí mà ông ta đưa ra đều bị Tôn Ngộ Không chê nhẹ, không vừa tay. Có lẽ Long Vương tự ái, bèn chỉ ra cây gậy sắt dùng để đo độ sâu của biển, thách Tôn lấy được thì cho. Ai ngờ số mệnh định sẵn, cây gậy tuân theo ý của Tôn, và bị Tôn xơi mất. Long Vương đòi lại không nổi, lại phải cúng cho Tôn bộ giáp vàng. Cay cú, Đông Hải Long vương bèn lên Trời kiện Tôn – vụ kiện đầu tiên trong Tây Du.

Chúng ta hãy chú ý, dòng họ nhà Long vương trong thần thoại Tàu là họ Ngao (Đông Hải Long vương tên là Ngao Quảng, cùng với 3 vị khác là Ngao Khâm, Ngao Thuận, Ngao Thân cai trị tứ hải). Thần thoại Trung Hoa chi tiết hơn Việt Nam rất nhiều. Mỗi vị thần tiên đều có lai lịch và tên tuổi rõ ràng. Ví dụ như họ Ngao là dòng họ Long Vương; Nhị Lang thần là Dương Tiễn có Hạo thiên khuyển, có 3 con mắt với đại đao ba mũi hai lưỡi; Thác Tháp Thiên Vương Lý Tịnh, có ba con là Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra; Thần Tài là Triệu Công Minh từng đối địch với Khương Tử Nha, chết được phongthần… Điều này thể hiện sự phong phú và phát triển cao của nền văn hóa Trung Hoa. Thực sự nước Việt ta nhỏ, không so sánh được với Trung Hoa về khoản này. Và văn hóa ViệtNam ta cũng khác, ai đó đừng nên so sánh hay đòi so bì với Trung Hoa làm gì.

Sự phản kháng với số phận của Ngộ Không bắt đầu trở nên quyết liệt, khi một mình đại náo Diêm Tào, bắt Diêm Vương đem sổ sinh tử, gạch tên toàn bộ các loài khỉ, khiến cho Âm Ti không cai quản nổi sự sống chết của loài khỉ. Tất nhiên, “các thế lực” đè nén này chẳng chịu được sự phản kháng của Ngộ Không – vụ kiện thứ hai bắt đầu, hài hước hơn là Diêm Vương – ông chùm gây bao nỗi kinh sợ của con người mặt đất lại phải lóc cóc lên trời kiện một người mà nhà Trời từng khinh thường gọi là con “thạch hầu”. Và cuộc chiến của Tôn Ngộ Không với Ngọc Hoàng Thượng Đế bắt đầu.

Thái Bạch Kim Tinh là một vị tiên hòa hoãn và ông ta bày kế mời Tôn Ngộ Không lên trời làm quan nhằm tránh họa binh đao. Kế này được chấp nhận và Tôn Ngộ Không lần thứ nhất lên trời. Ta lại thấy một Ngọc Hoàng cai trị muôn loài mà sao chẳng có con mắt nhìn người chút nào, lại khinh thường tài năng đến vậy. Một “yêu hầu” tài phép đầy mình như Tôn chỉ được phong chức quan Bật Mã Ôn, chuyên chăn ngựa, mà chẳng có chức vụ nào bé hơn thế nữa. Lẽ ra Ngọc Hoàng, người nắm trong tay số mệnh của muôn loài phải biết nhìn tài năng của mọi người, đằng này…

Tôn Ngộ Không là người duy nhất dám đứng trước mặt Ngọc Hoàng (thậm chí không thèm cúi đầu), trả lời gọn lỏn rằng “Có Lão Tôn đây!“. Một mình Tôn khiến cho Long cung, Âm tào địa phủ khiếp sợ, thoát khỏi kiếp luân hồi như thế thì hiển nhiên Tôn chẳng coi cái “ông Trời” kia là gì. Và rồi mặc cho các vị tiên thần trên trời khiếp sợ, Tôn cứ nghênh ngáo với ông Giời, và đến mức “Ngọc Hoàng cũng phải nể Lão Tôn đôi ba phần“…

(Còn nữa…)

Những trích đoạn tình yêu lãng mạn nhất trong các tiểu thuyết Kim Dung

2. Trong Ỷ thiên Đồ long ký – Đoạn trích tình yêu nhiều nước mắt nhất

Ảnh trong film

Có thể nói mối tình Dương Tiêu – Kỷ Hiểu Phù là mối tình ngang trái, cả hai đến với nhau từ địa vị “yêu râu xanh” và “kẻ bị cưỡng hiếp”, nhưng rồi yêu nhau đến độ “không hối tiếc” và sản phẩm tất yếu là cô con gái xinh đẹp mang tên “Bất Hối” (không hối hận). Tuy nhiên, tôi đánh giá đoạn trích nhiều nước mắt nhất lại là đoạn trích nàng Tiểu Chiêu chia tay Trương Giáo chủ trở về Ba Tư làm Thánh nữ:

 

Vô Kị xúc động vô cùng đành để mặc cho Tiểu Chiêu hầu hạ mặc áo cho mình như mọi khi. Mặc áo xong, nàng lấy lược chải tóc cho chàng, vừa chải tóc, nước mắt vừa nhỏ dòng. Vô Kị không sao nhịn được liền giơ tay ôm nàng vào lòng. Tiểu Chiêu chỉ khẽ kêu “Ủa” một tiếng và người rung động thôi, Vô Kị liền cúi đầu hôn nàng và nói:

– Tiểu Chiêu, thoạt tiên tôi còn trách cô lừa dối tôi không ngờ cô lại đối xử với tôi thế này.

Tiểu Chiêu gục đầu vào ngực chàng khóc nói:

– Thưa công tử, trước kia tôi có lừa dối công tử thật, mẹ tôi vốn dĩ là sứ nữ trong 3 vị Thánh sứ nữ của Tổng giáo, thừa lệnh giáo chủ đến Trung thổ lập công đức rồi trở về Ba Tư kế vị Giáo chủ…… nhưng rồi tôi quyết định không làm giáo chủ Ba Tư nữa mà chỉ muốn suốt đời làm con sen hầu hạ công tử, suốt đời không xa công tử. Có phải công tử đã nhận lời để cho tôi được như thế rồi không?

Vô Kị gật đầu rồi ôm nàng đặt lên đùi mình, hôn lấy hôn để. Nàng ngoan ngoãn để cho Vô Kị hôn, nước mắt rỏ xuống tận môi nhưng vẫn cảm thấy khoan khoái pha thêm chút chua chát. Tiểu Chiêu lại tiếp:

– Tôi nhớ thuộc lòng tâm pháp Càn khôn đại nã di nhưng không bao giờ phản bội công tử. Nếu hôm nay không gặp bước đường cùng thì tôi quyết không bao giờ dám tiết lộ việc này…

Vô Kị liền khẽ nói:

– Bây giờ tôi biết hết rồi.

Tiểu Chiêu ai oán nói tiếp:

– Hồi còn nhỏ, tôi đã nhận thấy mẹ tôi ngày đêm không yên lòng, lúc nào cũng như kinh hoàng sợ sệt việc gì. Sau mẹ tôi muốn che lấp khuôn mặt xinh đẹp kia đi, mới hóa trang thành bà lão. Mẹ tôi cấm tôi không được gần gũi…, lại không cho tôi ở chung, đuổi tôi đến nhờ một người nuôi nấng dạy bảo hộ. Cứ cách hai năm, mẹ tôi lại đến thăm tôi một lần, lúc ấy tôi không hiểu sao mẹ tôi phải làm thế, sao phải hi sinh vì kết hôn với cha tôi. Thưa công tử, nếu ngày hôm nay chúng ta không được toại ý, thì đừng nói làm giáo chủ, chứ làm nữ hoàng tôi cũng không muốn.

Nói tới đó, hai má nàng đỏ bừng. Giữa lúc ấy, Đại Ỷ Ty ở ngoài phòng bỗng lên tiếng gọi:

– Tiểu Chiêu, nếu con không kiềm chế được tình dục thì liên lụy đến tính mạng Trương Công Tử đấy..

 

Trong bốn nhân vật nữ đáng chú ý của Ỷ thiên Đồ long ký, có hai cô gái Hán tộc và hai cô gái ngoại tộc. Rốt cuộc thì Chu Chỉ Nhược không đáng yêu bằng nàng Triệu Mẫn, Ân Ly chưa đủ độ đáng yêu như Tiểu Chiêu, hay rốt cuộc hai cô nương dị tộc đáng yêu hơn. Nàng Tiểu Chiêu từ lúc xuất hiện phải chịu thân phận con sen người ở, yêu Trương Vô Kị với mối tình thầm lặng như chủ tớ, thật đáng thương, nàng đáng thương như câu hát mà nàng Ân Ly đã hát:

Lai như lưu thủy, thệ như phong

Bất tri hà khứ, hà sở chung…

 

Còn nữa…

Những trích đoạn tình yêu lãng mạn nhất trong các tiểu thuyết Kim Dung

Một số bài viết tới đây sẽ nói về những đoạn trích xúc động và lãng mạn nhất trong các tiểu thuyết Kim Dung, hi vọng được mọi người đọc và cùng bàn luận.

 

1. Trong Ỷ thiên Đồ long ký

Ảnh trong film Ỷ thiên Đồ long ký 2004

Trong Ỷ thiên Đồ long ký có nhiều mối tình lãng mạn như của Trương Thúy Sơn – Ân Tố Tố, Dương Tiêu – Kỷ Hiểu Phù, … nhưng đáng kể là tình yêu của Triệu Mẫn dành cho Trương Vô Kị, và đoạn trích dưới đây cực kỳ đắt giá:

 

…. Chàng ngẩng đầu lên nhìn mới hay mình đã đi đến chỗ tửu điếm mà mà ngày nọ chàng đã cùng Triệu Mẫn uống rượu, chàng giật mình kinh hãi nghĩ thầm:

– Sao ta bỗng dưng lại đi tới đây như thế? Hay là lòng ta không thể dứt được Triệu cô nương chăng?

Chàng thấy cửa điếm hé mở, bên trong vắng ngắt. Chần chờ giây lát, chàng liền đẩy cửa đi vào, thấy tên tiểu nhị đang gà gật bên bàn quầy. Chàng tiến vào bên trong hồi đường. Chàng thấy trên một cái bàn vuông trong một góc tường có thắp một cây nến nhỏ nửa mờ nửa sáng, cạnh bàn có một người đang ngồi quay mặt vào trong. Bàn ấy chính là bàn mà chàng và Triệu Mẫn từng ngồi uống rượu với nhau. Chàng thấy ngoài vị khách quay mặt vào tường kia thì không còn người thứ hai nào cả. Chàng ngạc nhiên đi đến gần, người nọ nghe tiếng chàng liền giật mình quay lại, mới hay nàng ta chính là Triệu Mẫn. Cả hai đều không ngờ gặp nhau ở đây nên bất giác đồng thanh kêu “Ủa”.

Triệu Mẫn khẽ hỏi:

– Đại.. ca lại tới đây như vậy?

Giọng của nàng run run, hiển nhiên trong thâm nàng bị kích động vô cùng, Vô Kị đáp:

– Tôi nhân lúc nhàn rỗi đi qua đây, không ngờ…

Chàng vừa nói vừa tới gần mới hay trước mặt Triệu Mẫn còn bày thêm một bộ bát đũa nữa. Chàng liền hỏi tiếp:

– Còn ai nữa thế?

Triệu Mẫn đỏ bừng mặt đáp:

– Không có ai cả, lần trước tôi và đại ca từng uống rượu ở đây, đại ca ngồi trước mặt tôi, cho nên tôi mới gọi tiểu nhị cho thêm một đôi đũa và một cái chén như thế.

Vô Kị nghe nàng nói như vậy, cảm động vô cùng, chàng thấy trên bàn có bốn món ăn như những món mà lần đầu tiên chàng mới gặp nàng ở đây, nàng đã dặn tiểu nhị làm vậy, lúc này chàng mới thấy lòng nàng yêu mình thế nào, không sao nhịn được, chàng liền giơ tay nắm lấy tay Triệu Mẫn thì thầm gọi:

– Triệu cô nương….!

Triệu Mẫn khóc nói:

– Tôi rất hận là đã sinh ra trong một gia đình vương giả của người Mông Cổ và còn là kẻ đối địch của đại ca…

 

Có lẽ đây là một trong những trích đoạn hay nhất của Ỷ thiên Đồ Long ký, nó cho ta thấy nàng Triệu Mẫn yêu chàng Trương Vô Kị thế nào, và cũng chứng tỏ lòng chàng Vô Kị, nàng Triệu Mẫn mới là tình yêu đích thực của chàng…

Đọc Ỷ thiên Đồ long ký, tôi thích nhất đoạn này và hiển nhiên với tôi nàng Triệu Mẫn cũng là nữ nhân vật đáng yêu nhất của tiểu thuyết này. Còn bạn, bạn nghĩ sao?…

Còn nữa…

Những nhân vật hay nhất trong Tam Quốc Diễn nghĩa (Phần 7)

Tư Mã Ý: Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt 

 

Đây là câu châm ngôn của người Thục, bêu riếu việc Tư Mã Trọng Đạt sợ Gia Cát Khổng Minh đến mức Gia Cát chết rồi mà người ta vẫn còn dọa được Trọng Đạt sợ bỏ chạy chối chết. Đấu trực tiếp trên chiến trường quả thật Trọng Đạt luôn thua Khổng Minh, nhưng rốt cục, Trọng Đạt lại thắng, để rồi Gia Cát Khổng Minh chết vì lao lực trên Ngũ Trượng cương với mối hận “trời xanh thăm thẳm hận này biết bao giờ nguôi”. Trọng Đạt xứng danh là đối thủ xứng tầm của Gia Cát, thắng Gia Cát chỉ nhờ có một chữ: NHẪN! 

Tư Mã Ý tự là Trọng Đạt, ban đầu chỉ là một mưu sĩ tầm thường của Tào Tháo. Dòng họ Tư Mã của Trọng Đạt có biết bao danh nhân nổi danh từ đời Hán: Tư Mã Thiên với Sử ký Tư Mã Thiên ngàn năm nổi danh, Tư Mã Tương Như với khúc Phượng Cầu đầy tình tứ, và rồi cháu của Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm chấm dứt cục diện phân tranh Tam quốc, đưa Trung Quốc trở lại thời kỳ thống nhất. Có thể nói ở thời Tam Quốc, nếu đánh giá gian hùng số một thì phải là dòng họ Tư Mã này cơ.

Tư Mã Ý bắt đầu nổi lên ở chiến dịch đánh Hán Trung của Tào Tháo. Có thể nói trước đó, Tào Tháo quá nổi bật về quân sự, dẫn đến việc Tư Mã Ý như một con rồng ẩn mình, chẳng tỏ ra được chút gì. Khi Tào Mạnh Đức quá mỏi mệt vì xứ Hán Trung rừng rú mới chiếm được, Trọng Đạt dâng kế “Khôn ngoan không bằng thừa thế“, sao không nhân lúc đang vang dội vì chiến thắng Hán Trung, thừa thế kéo quân một trận đánh nước Thục mới lập, lòng quân dân còn chưa vững (Hồi 67). Tiếc thay Tào Tháo quá mỏi mệt, không nghe theo, bỏ lỡ cơ hội sớm thống nhất Trung Hoa. Quả thực, việc Tào Tháo đánh tan Hán Trung làm rung chuyển nước Thục, ngay cả Khổng Minh và Lưu Bị cũng run như cầy sấy… Nhưng đó cũng là số trời để dòng họ Tư Mã thống nhất Trung Hoa chứ không phải họ Tào. Và đối thủ của Gia Cát Lượng bắt đầu lộ mặt.

Tập 7 của Tam Quốc Diễn nghĩa (Bản cũ, 8 tập, 120 hồi) là hồi diễn tả cuộc chiến giữa 2 đối thủ Gia Cát – Tư Mã. Sau cái chết của các anh hùng thuộc “thế hệ một”: Tào Tháo, Lưu Bị, …, thế hệ thứ hai nổi lên với Hoàng đế nước Ngụy là Tào Phi tin dùng Tư Mã Ý ra sức đối địch với nước Thục. Khổng Minh hiểu sức yếu của nước mình, lấy công làm thủ, liên tiếp đánh Ngụy để giữ nước.

Thất bại đầu tiên của Ý trước Lượng là dùng mưu đem 6 đạo quân tấn công nước Thục với vị chúa trẻ ngu dốt Lưu Thiện mới lên ngôi sau thất bại của Lưu Bị ở trận Hào Đình, không ngờ Khổng Minh ngồi trong tướng phủ vạch kế đánh tan âm mưu này, Ý đành lui về lấy thế thủ và hiểu rằng Ý đang gặp một đối thủ đáng gờm, khó mà “nhai” được.

Khổng Minh cũng hiểu mình có một đối thủ khó nhằn, nên khi bắt đầu kế hoạch tiến quân đánh Ngụy, đã nghĩ ngay đến Tư Mã Ý và đau đầu lo về đối thủ này. Mã Tốc nhân thể lấy lòng Gia Cát với một kế bày kế ly gián làm Tân Ngụy chủ Tào Tuấn nghi ngờ Ý, tước hết binh quyền đuổi về quê. Một thời gian dài vắng Ý, nước Ngụy như rơi vào thảm cảnh thất bại. Đại tướng quân Tào Chân dẫu giỏi cầm quân vẫn không phải đối thủ của Gia Cát, Vương Lãng dù giỏi mồm mép vẫn không tránh khỏi bị Gia Cát giở giọng mắng chết trước trận tiền, Quách Hoài khéo cầm quân vẫn chẳng ngờ quỷ kế Gia Cát, và nước Ngụy như run rẩy trước vị “thần nhân” Gia Cát, thế nhưng, đúng lúc đó thì Tào Tuấn lại sáng suốt biết dùng Tư Mã Ý.

Lần đầu trở lại của Tư Mã Ý đã khiến Gia Cát ăn không ngon ngủ không yên, Ý chơi trò “tiền trảm hậu tấu” đập tan âm mưu phản loạn của Mạnh Đạt (hồi 95), nhân thể tiến quân đánh Nhai Đình. Ở trận Nhai Đình, ban đầu Ý đã tưởng mình thất bại khi quân báo Khổng Minh đã cho người đóng giữ Nhai Đình rồi, nhưng trời giúp Ý khi Khổng Minh để Mã Tốc (chứ không phải là Vương Bình) làm chủ tướng giữ Nhai Đình. Tư Mã lúc này hơn hẳn Khổng Minh, nhận ra con người của Mã Tốc, và dễ dàng đánh bại Mã Tốc chiếm Nhai Đình khiến cho Khổng Minh bất đắc dĩ phải dùng không thành kế ở Tây Thành mới thoát khỏi tay Tư Mã.

Không thành kế ở Tây Thành (hồi 95) là một trận chiến độc đáo cân não giữa hai đối thủ. Tư Mã Ý thua Gia Cát ở trận này vì quá hiểu Gia Cát. Ý rút kinh nghiệm Gia Cát không nghe lời Ngụy Diên tiến quân theo hang Tí Ngọ mà đi theo con đường Kỳ Sơn, đồ rằng Gia Cát cực kỳ cẩn thận, không bao giờ một mình ngồi gảy đàn trên thành đánh quả liều với Ý cả, và dường như Ý sợ trước một Khổng Minh cực kỳ ung dung đánh đàn trên thành, bên dưới là một cổng thành mở toang, chỉ có vài dân chúng đang quét thành. Ý thua thật sự ở trận này!

Đấu trận đồ, Ý thua Gia Cát (Hồi 100 – Khổng Minh đấu trận nhục Trọng Đạt), đấu quỷ kế, Ý cũng thua, để đến nỗi Trương Cáp chết vì tên bắn trong hẻm núi Kiếm Các, đấu tài danh chế tạo, Ý lại thua Gia Cát trong trận chiến trâu gỗ ngựa máy. Hiển nhiên vậy, Khổng Minh là người nghĩ ra trâu gỗ ngựa máy thì hẳn phải hiểu hơn Trọng Đạt chứ, vì thế nên Trọng Đạt cướp được trâu ngựa gỗ lại nhân thế bắt chước làm theo lại thành trò cười cho quân Thục, để quân Thục nhân thế dùng binh cướp sạch lương thảo, cướp tr�
��i đánh bại Tư Mã. Còn gì nữa nhỉ? Địa lôi phải thua thiên lôi, Khổng Minh dùng kế lừa cha con Trọng Đạt vào hang Thượng Phương, định dùng địa lôi đốt chết cha con Tư Mã, nhưng số trời đã định cho dòng họ Tư Mã nên nổi cơn mưa dập tắt địa lôi, cha con Ý thoát chết, dù quân tướng bị đánh cho tan tành. Trọng Đạt cũng từng tưởng cha con mình đến đây là tận số, từng nhảy xuống đất ôm hai con mà khóc tướng lên rằng “Ba cha con ta hôm nay phải chết ở đây thôi” (hồi 103), có lẽ lần này Ý khóc và sợ thật sự.

Sau những thất bại đó, Ý hiểu rằng mình chẳng thể đấu nổi Khổng Minh, nên đành nhẫn nhịn ém quân chờ thời. Quân Thục vào sâu trong nước Ngụy chẳng thể ở lâu, Khổng Minh tự mình làm mọi việc chẳng thể khỏe mà sống lâu (đây giống như trò báo thù của Hoàng Thường tác giả Cửu âm Chân kinh là cách trả thù hay nhất là sống lâu hơn kẻ thù). Ý phải nhẫn nhịn đến mức Khổng Minh gửi khăn yếm đàn bà đến cho Ý khích Ý ra trận, nhưng Ý lại nhẫn nhịn cúi lạy và nhận khăn, chịu tiếng nhục (hồi 103).

Sứ giả tới dâng thư và một cái hộp rồi nói:

– Thừa Tướng tôi gửi tới Ðô Ðốc.

Tư Mã Ý mở hộp ra thì thấy toàn khăn yếm và đồ đàn bà để tang, lại xé thư ra xem.

Thư rằng: Ðã là đại tướng tại sao không cầm quân mà lại trốn trong hang. Như thế còn thua đàn bà con gái. Nay ta gi cho người khăn yếm và đồ đàn bà để tang, nếu ngươi không dám ra đánh, hãy cúi lạy và lĩnh đồ này trước ba quân để nhận làm một đàn bà góa.

Tư Mã Ý xem thư xong trong bụng căm tức lắm, nhưng vẫn cười bảo rằng: – Khổng Minh coi ta như đàn bà ru?

Rồi cúi lạy và nhận khăn yếm và cho sứ giả về...(Hồi thứ 103)

Có thể nói quân tướng chẳng ai hiểu Ý, trừ Ngụy chủ Tào Tuấn, thấy vậy giả vờ ra lệnh cấm không được ra đánh làm cho quân Tào yên tâm (dù trong bụng căm tức lắm) án binh bất động. Nếu Tư Mã chỉ vì sĩ diện của kẻ vũ phu mà ra đánh trận với Gia Cát thì chẳng những chẳng giữ nổi quân mình và nước Ngụy chẳng hiểu có giữ nổi giang sơn nữa không. Có thể xem cả đời Ý có nỗi nhục lớn nhất là sự nhẫn nhịn này, nhưng nó cũng đem lại vinh quang lớn nhất cho Ý: Chiến thắng đối thủ lớn nhất nhờ sự nhẫn nhịn. Với chữ NHẪN đạt được này, có thể so sánh Ý với Hàn Tín chấp nhận chịu nhục luồn qua háng tên hàng thịt ở chợ để lưu cái thân hữu dụng đi làm việc lớn. Tất nhiên cũng là trời cho Tư Mã Ý một vị minh chủ như Tào Tuấn, chứ nếu Ý không gặp Tào Tuấn mà gặp Tôn Quyền (ví dụ thế) thì liệu có hiểu Ý đến vậy để mà nhẫn nhịn không?

Và rồi cái gì đến cũng phải đến, Gia Cát chết vì kiệt sức trên gò Ngũ Trượng, Ý mừng lắm, đem quân đến đánh, nhưng bụng dạ vẫn còn hồ nghi Gia Cát bày trò quỷ. Bởi thế mà khi quân Thục lôi bộ tượng gỗ của Gia Cát lại, Ý chạy chối chết, sợ đến mức hỏi quân tướng “Đầu ta có còn không?” (hồi 104) và người Thục đã cho ra đời câu châm ngôn “Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt” (Gia Cát chết còn dọa được Trọng Đạt sống) từ đó. Nhưng xét cho cùng, Tư Mã Ý đã thắng, thắng nhờ biết mình, biết đối thủ!

Và có lẽ sau đó, những chiến thắng của Ý trong mặt trận chính trị trong nước chẳng có gì đáng nói: giả già lừa Tào Sảng, cướp lấy binh quyền họ Tào, đánh bại Gia Cát Đản, bởi những kẻ đó đâu xứng là đối thủ của Tư Mã Ý. Có lẽ cả đời Ý chỉ phục có Gia Cát mà thôi.

Còn câu kết nói về Ý, đúng là nhớ lại câu mà sư huynh Đức Dũng có nhắc nhở mình “Quyền bính trong tay nặng quá, gỡ ra không được, cẩn trọng kẻo chết ba họ“. Và những thế hệ sau của họ Tư Mã đã hoàn thành ý nguyện của Ý, đoạt binh quyền, thống nhất Trung Hoa.

Còn nữa…

Đang tìm nhân vật cho kỳ sau. Ai recommend cho mình một nhân vật với nhỉ?