Những nhân vật hay nhất trong Tam Quốc Diễn nghĩa (Phần 7)

Tư Mã Ý: Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt 

 

Đây là câu châm ngôn của người Thục, bêu riếu việc Tư Mã Trọng Đạt sợ Gia Cát Khổng Minh đến mức Gia Cát chết rồi mà người ta vẫn còn dọa được Trọng Đạt sợ bỏ chạy chối chết. Đấu trực tiếp trên chiến trường quả thật Trọng Đạt luôn thua Khổng Minh, nhưng rốt cục, Trọng Đạt lại thắng, để rồi Gia Cát Khổng Minh chết vì lao lực trên Ngũ Trượng cương với mối hận “trời xanh thăm thẳm hận này biết bao giờ nguôi”. Trọng Đạt xứng danh là đối thủ xứng tầm của Gia Cát, thắng Gia Cát chỉ nhờ có một chữ: NHẪN! 

Tư Mã Ý tự là Trọng Đạt, ban đầu chỉ là một mưu sĩ tầm thường của Tào Tháo. Dòng họ Tư Mã của Trọng Đạt có biết bao danh nhân nổi danh từ đời Hán: Tư Mã Thiên với Sử ký Tư Mã Thiên ngàn năm nổi danh, Tư Mã Tương Như với khúc Phượng Cầu đầy tình tứ, và rồi cháu của Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm chấm dứt cục diện phân tranh Tam quốc, đưa Trung Quốc trở lại thời kỳ thống nhất. Có thể nói ở thời Tam Quốc, nếu đánh giá gian hùng số một thì phải là dòng họ Tư Mã này cơ.

Tư Mã Ý bắt đầu nổi lên ở chiến dịch đánh Hán Trung của Tào Tháo. Có thể nói trước đó, Tào Tháo quá nổi bật về quân sự, dẫn đến việc Tư Mã Ý như một con rồng ẩn mình, chẳng tỏ ra được chút gì. Khi Tào Mạnh Đức quá mỏi mệt vì xứ Hán Trung rừng rú mới chiếm được, Trọng Đạt dâng kế “Khôn ngoan không bằng thừa thế“, sao không nhân lúc đang vang dội vì chiến thắng Hán Trung, thừa thế kéo quân một trận đánh nước Thục mới lập, lòng quân dân còn chưa vững (Hồi 67). Tiếc thay Tào Tháo quá mỏi mệt, không nghe theo, bỏ lỡ cơ hội sớm thống nhất Trung Hoa. Quả thực, việc Tào Tháo đánh tan Hán Trung làm rung chuyển nước Thục, ngay cả Khổng Minh và Lưu Bị cũng run như cầy sấy… Nhưng đó cũng là số trời để dòng họ Tư Mã thống nhất Trung Hoa chứ không phải họ Tào. Và đối thủ của Gia Cát Lượng bắt đầu lộ mặt.

Tập 7 của Tam Quốc Diễn nghĩa (Bản cũ, 8 tập, 120 hồi) là hồi diễn tả cuộc chiến giữa 2 đối thủ Gia Cát – Tư Mã. Sau cái chết của các anh hùng thuộc “thế hệ một”: Tào Tháo, Lưu Bị, …, thế hệ thứ hai nổi lên với Hoàng đế nước Ngụy là Tào Phi tin dùng Tư Mã Ý ra sức đối địch với nước Thục. Khổng Minh hiểu sức yếu của nước mình, lấy công làm thủ, liên tiếp đánh Ngụy để giữ nước.

Thất bại đầu tiên của Ý trước Lượng là dùng mưu đem 6 đạo quân tấn công nước Thục với vị chúa trẻ ngu dốt Lưu Thiện mới lên ngôi sau thất bại của Lưu Bị ở trận Hào Đình, không ngờ Khổng Minh ngồi trong tướng phủ vạch kế đánh tan âm mưu này, Ý đành lui về lấy thế thủ và hiểu rằng Ý đang gặp một đối thủ đáng gờm, khó mà “nhai” được.

Khổng Minh cũng hiểu mình có một đối thủ khó nhằn, nên khi bắt đầu kế hoạch tiến quân đánh Ngụy, đã nghĩ ngay đến Tư Mã Ý và đau đầu lo về đối thủ này. Mã Tốc nhân thể lấy lòng Gia Cát với một kế bày kế ly gián làm Tân Ngụy chủ Tào Tuấn nghi ngờ Ý, tước hết binh quyền đuổi về quê. Một thời gian dài vắng Ý, nước Ngụy như rơi vào thảm cảnh thất bại. Đại tướng quân Tào Chân dẫu giỏi cầm quân vẫn không phải đối thủ của Gia Cát, Vương Lãng dù giỏi mồm mép vẫn không tránh khỏi bị Gia Cát giở giọng mắng chết trước trận tiền, Quách Hoài khéo cầm quân vẫn chẳng ngờ quỷ kế Gia Cát, và nước Ngụy như run rẩy trước vị “thần nhân” Gia Cát, thế nhưng, đúng lúc đó thì Tào Tuấn lại sáng suốt biết dùng Tư Mã Ý.

Lần đầu trở lại của Tư Mã Ý đã khiến Gia Cát ăn không ngon ngủ không yên, Ý chơi trò “tiền trảm hậu tấu” đập tan âm mưu phản loạn của Mạnh Đạt (hồi 95), nhân thể tiến quân đánh Nhai Đình. Ở trận Nhai Đình, ban đầu Ý đã tưởng mình thất bại khi quân báo Khổng Minh đã cho người đóng giữ Nhai Đình rồi, nhưng trời giúp Ý khi Khổng Minh để Mã Tốc (chứ không phải là Vương Bình) làm chủ tướng giữ Nhai Đình. Tư Mã lúc này hơn hẳn Khổng Minh, nhận ra con người của Mã Tốc, và dễ dàng đánh bại Mã Tốc chiếm Nhai Đình khiến cho Khổng Minh bất đắc dĩ phải dùng không thành kế ở Tây Thành mới thoát khỏi tay Tư Mã.

Không thành kế ở Tây Thành (hồi 95) là một trận chiến độc đáo cân não giữa hai đối thủ. Tư Mã Ý thua Gia Cát ở trận này vì quá hiểu Gia Cát. Ý rút kinh nghiệm Gia Cát không nghe lời Ngụy Diên tiến quân theo hang Tí Ngọ mà đi theo con đường Kỳ Sơn, đồ rằng Gia Cát cực kỳ cẩn thận, không bao giờ một mình ngồi gảy đàn trên thành đánh quả liều với Ý cả, và dường như Ý sợ trước một Khổng Minh cực kỳ ung dung đánh đàn trên thành, bên dưới là một cổng thành mở toang, chỉ có vài dân chúng đang quét thành. Ý thua thật sự ở trận này!

Đấu trận đồ, Ý thua Gia Cát (Hồi 100 – Khổng Minh đấu trận nhục Trọng Đạt), đấu quỷ kế, Ý cũng thua, để đến nỗi Trương Cáp chết vì tên bắn trong hẻm núi Kiếm Các, đấu tài danh chế tạo, Ý lại thua Gia Cát trong trận chiến trâu gỗ ngựa máy. Hiển nhiên vậy, Khổng Minh là người nghĩ ra trâu gỗ ngựa máy thì hẳn phải hiểu hơn Trọng Đạt chứ, vì thế nên Trọng Đạt cướp được trâu ngựa gỗ lại nhân thế bắt chước làm theo lại thành trò cười cho quân Thục, để quân Thục nhân thế dùng binh cướp sạch lương thảo, cướp tr�
��i đánh bại Tư Mã. Còn gì nữa nhỉ? Địa lôi phải thua thiên lôi, Khổng Minh dùng kế lừa cha con Trọng Đạt vào hang Thượng Phương, định dùng địa lôi đốt chết cha con Tư Mã, nhưng số trời đã định cho dòng họ Tư Mã nên nổi cơn mưa dập tắt địa lôi, cha con Ý thoát chết, dù quân tướng bị đánh cho tan tành. Trọng Đạt cũng từng tưởng cha con mình đến đây là tận số, từng nhảy xuống đất ôm hai con mà khóc tướng lên rằng “Ba cha con ta hôm nay phải chết ở đây thôi” (hồi 103), có lẽ lần này Ý khóc và sợ thật sự.

Sau những thất bại đó, Ý hiểu rằng mình chẳng thể đấu nổi Khổng Minh, nên đành nhẫn nhịn ém quân chờ thời. Quân Thục vào sâu trong nước Ngụy chẳng thể ở lâu, Khổng Minh tự mình làm mọi việc chẳng thể khỏe mà sống lâu (đây giống như trò báo thù của Hoàng Thường tác giả Cửu âm Chân kinh là cách trả thù hay nhất là sống lâu hơn kẻ thù). Ý phải nhẫn nhịn đến mức Khổng Minh gửi khăn yếm đàn bà đến cho Ý khích Ý ra trận, nhưng Ý lại nhẫn nhịn cúi lạy và nhận khăn, chịu tiếng nhục (hồi 103).

Sứ giả tới dâng thư và một cái hộp rồi nói:

– Thừa Tướng tôi gửi tới Ðô Ðốc.

Tư Mã Ý mở hộp ra thì thấy toàn khăn yếm và đồ đàn bà để tang, lại xé thư ra xem.

Thư rằng: Ðã là đại tướng tại sao không cầm quân mà lại trốn trong hang. Như thế còn thua đàn bà con gái. Nay ta gi cho người khăn yếm và đồ đàn bà để tang, nếu ngươi không dám ra đánh, hãy cúi lạy và lĩnh đồ này trước ba quân để nhận làm một đàn bà góa.

Tư Mã Ý xem thư xong trong bụng căm tức lắm, nhưng vẫn cười bảo rằng: – Khổng Minh coi ta như đàn bà ru?

Rồi cúi lạy và nhận khăn yếm và cho sứ giả về...(Hồi thứ 103)

Có thể nói quân tướng chẳng ai hiểu Ý, trừ Ngụy chủ Tào Tuấn, thấy vậy giả vờ ra lệnh cấm không được ra đánh làm cho quân Tào yên tâm (dù trong bụng căm tức lắm) án binh bất động. Nếu Tư Mã chỉ vì sĩ diện của kẻ vũ phu mà ra đánh trận với Gia Cát thì chẳng những chẳng giữ nổi quân mình và nước Ngụy chẳng hiểu có giữ nổi giang sơn nữa không. Có thể xem cả đời Ý có nỗi nhục lớn nhất là sự nhẫn nhịn này, nhưng nó cũng đem lại vinh quang lớn nhất cho Ý: Chiến thắng đối thủ lớn nhất nhờ sự nhẫn nhịn. Với chữ NHẪN đạt được này, có thể so sánh Ý với Hàn Tín chấp nhận chịu nhục luồn qua háng tên hàng thịt ở chợ để lưu cái thân hữu dụng đi làm việc lớn. Tất nhiên cũng là trời cho Tư Mã Ý một vị minh chủ như Tào Tuấn, chứ nếu Ý không gặp Tào Tuấn mà gặp Tôn Quyền (ví dụ thế) thì liệu có hiểu Ý đến vậy để mà nhẫn nhịn không?

Và rồi cái gì đến cũng phải đến, Gia Cát chết vì kiệt sức trên gò Ngũ Trượng, Ý mừng lắm, đem quân đến đánh, nhưng bụng dạ vẫn còn hồ nghi Gia Cát bày trò quỷ. Bởi thế mà khi quân Thục lôi bộ tượng gỗ của Gia Cát lại, Ý chạy chối chết, sợ đến mức hỏi quân tướng “Đầu ta có còn không?” (hồi 104) và người Thục đã cho ra đời câu châm ngôn “Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt” (Gia Cát chết còn dọa được Trọng Đạt sống) từ đó. Nhưng xét cho cùng, Tư Mã Ý đã thắng, thắng nhờ biết mình, biết đối thủ!

Và có lẽ sau đó, những chiến thắng của Ý trong mặt trận chính trị trong nước chẳng có gì đáng nói: giả già lừa Tào Sảng, cướp lấy binh quyền họ Tào, đánh bại Gia Cát Đản, bởi những kẻ đó đâu xứng là đối thủ của Tư Mã Ý. Có lẽ cả đời Ý chỉ phục có Gia Cát mà thôi.

Còn câu kết nói về Ý, đúng là nhớ lại câu mà sư huynh Đức Dũng có nhắc nhở mình “Quyền bính trong tay nặng quá, gỡ ra không được, cẩn trọng kẻo chết ba họ“. Và những thế hệ sau của họ Tư Mã đã hoàn thành ý nguyện của Ý, đoạt binh quyền, thống nhất Trung Hoa.

Còn nữa…

Đang tìm nhân vật cho kỳ sau. Ai recommend cho mình một nhân vật với nhỉ?

Những nhân vật hay nhất trong Tam Quốc Diễn nghĩa (Phần 6)

Chu Công Cẩn: Trời đã sinh ra Du, sao còn sinh ra Lượng 

 

Dạo này tôi cũng chưa có hứng viết blog, nhưng nhận được comment của một sư huynh (vốn là bạn hữu trà đá từ hồi còn vạ vật ở 334 Nguyễn Trãi) muốn tiếp tục đàm đạo về Chu Du, về Tư Mã Ý nên cố gượng ép mình viết vậy. Dẫu biết rằng mạch văn chẳng thể gượng ép được, nhưng thấy thịnh tình bạn hữu xa cách lâu ngày nên cũng cố khuya bàn phím vậy.

Có lẽ Chu Du là một trong số ít các nhân vật đặc sắc thuộc hàng ngũ Đông Ngô, một nhân vật đặc sắc cả về văn học và lịch sử, người đã góp phần quan trọng vào chiến thắng Xích Bích chia ba thiên hạ. Với những cuộc tranh đấu với “tri kỷ” Gia Cát Khổng Minh, Chu Du bị người đời gán cho cái “mác” là “hẹp hòi, ghanh ghét tài năng”, nhưng với tôi, Chu Du không phải con người như vậy (xin xem bài viết trước nói lên quan điểm của tôi về sự tranh đấu giữa Chu Du và Gia Cát LượngBản đồ Trung Hoa thời Tam Quốc ! )

 

 

Mở đầu cho cuộc đàm đạo về Chu Du, tôi lại muốn cùng mọi người đọc lại bài thơ Xích Bích hoài cổ” của Đỗ Mục vịnh về bãi sông Xích Bích, nơi diễn ra trận chiến Xích Bích nổi tiếng trong lịch sử, trận chiến đã đưa hai nhân vật Chu Du và Gia Cát Lượng bước vào trận chiến thật sự để tranh đoạt thế “Thiên hạ tam phân”:

Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu, 

Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.

Đông phong bất dữ Chu Lang tiện,

Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều.

Dịch thơ là:

Dưới cát gươm chìm sắt chửa tiêu

Mài rũa lắng nghe việc tiền triều

Gió đông nếu chẳng vì Công Cẩn

Đồng Tước đêm xuân khóa hai Kiều

Vâng, đúng là “Gió đông nếu chẳng vì Công Cẩn“, thì chẳng biết liên minh Tôn – Lưu có chống nổi 83 vạn tào binh hùng mạnh hay không, và chẳng biết Chu Công Cẩn có còn giữ nổi vị trí để tạo ra những cuộc tranh đoạt đầy thú vị với Ngọa Long cho hậu thế chúng ta cùng ngồi tán thưởng nữa hay không?

Chu Du tên chữ là Công Cẩn, vốn là anh em kết nghĩa với Tôn Sách (Tôn Bá Phù). Trời cho cái duyên cho 2 anh em kết nghĩa ấy lấy được 2 cô hoa hậu xứ Giang Đông thời đó là Đại Kiều (Tôn Sách) và Tiểu Kiều (Chu Du) con của Kiều Quốc Lão. Du vốn là người tài hoa, văn võ song toàn. Là một đại tướng nhưng Chu Du say mê âm nhạc. Có lần, Chu Du mời một kĩ nữ đàn tranh nổi tiếng đến biểu diễn. Kĩ nữ rất vui mừng, hồi hộp được mời, được phục vụ bậc anh hùng nổi tiếng nhất xứ Đông Ngô. Khi cô đàn, Chu lặng nghe, nhắm nghiền mắt. Nhưng cô lại muốn Chu vừa nghe đàn vừa nhìn ngắm sắc đẹp của cô. Cô nghĩ ra mẹo: gẩy sai một nốt nhạc, thế là Chu Du bừng mắt, cau mặt nhìn kĩ nữ như oán trách. Cô rất thích thú, lại gảy tiếp thật hay. Thi thoảng cô lại dùng mẹo ấy. Ai giỏi nhạc hơn ai, kĩ n��
� hay Chu
Công Cẩn? Cuộc gặp gỡ giữa một nhà nghệ sĩ biểu diễn và một nhà phê bình âm nhạc. Mỗi người đều có năng lực âm nhạc khác nhau. Và bài thơ của nhà thơ đời Đường Lĩ Đoan chính là miêu tả câu chuyện này:

Minh tranh kim túc trụ

Tố thủ ngọc phòng tiền

Dục đắc Chu lang cố

Thời thời ngộ phất huyền

(Minh Tranh, Lý Đoan)

Tác giả Phùng Hoài Ngọc dịch là:

Đàn minh tranh phím trụ vàng,

Bàn tay trắng đẹp của nàng trên dây

Muốn chàng quay mặt nhìn đây

Bồn chồn thi thoảng gẩy sai cung đàn.

Một vị tướng tài năng lại có tâm hồn nghệ sĩ như vậy, ắt không thể là người có bụng dạ hẹp hòi như thiên hạ vẫn lầm tưởng rằng Du vẫn ghanh ghét tài năng với Ngọa Long Gia Cát, tôi tin là như vậy!

Chu Du vì hận Tào Tháo có ý lăm le đoạt nàng Kiều của mình, quyết tâm đem tướng sĩ Đông Ngô một phen, đó là cái ý mà người thường dễ nhận ra, nhưng thực ra, Du hiểu rằng cuộc chiến với Tào Tháo là tất yếu nếu muốn giữ cơ nghiệp của Giang Đông. Bởi lẽ, với lũ mưu sĩ quan văn hèn nhát, hàng Tào Tháo thì sẽ có lợi cho họ, nhưng với những người có chí khí thuộc tầng lớp thân tộc họ Tôn nếu đầu hàng Tào Tháo tất sẽ bị giết để tránh mầm họa, đó là nguyên nhân sâu xa khiến Du cùng Tôn Quyền quyết tâm liên minh với Lưu Bị đánh Tào.

Một mẹo tương kế tựu kế của Du lừa Tưởng Cán khiến cho Tháo lập tức chém 2 tướng tài Sái Mạo và Trương Doãn (hai hàng tướng thủy quân của Kinh Châu), rồi dùng “Khổ nhục kế” sai Hoàng Cái trá hàng Tào… đủ thấy tài năng của Du rồi, chẳng cần bàn nhiều nữa!

Một người hết lòng vì chủ như Du, tất nhìn thấy cái mầm họa Ngọa Long – Lưu Bị, một con rồng đang nằm ngủ, nay thức giấc được đất Kinh Châu, được minh chủ biết sử dụng như Lưu Hoàng thúc, có lẽ gì chẳng dựng lên nghiệp lớn, đe dọa cơ nghiệp của Giang Đông. Chính vì thế, Du chẳng ngại ngần gì việc cắt cái mầm họa Lưu Bị – Gia Cát, đừng nên gán cho vị tướng quân này cái mác ghanh ghét nhân tài. Nếu Du ganh ghét, chắc chắn đã không cho Gia Cát Cẩn đi thuyết phục Gia Cát Lượng về phục vụ cho Tôn Quyền, chỉ trách rằng Gia Cát Cẩn tài năng chỉ bằng một góc em mình, không những chẳng hoàn thành việc được giao, trái lại còn thành trạng thái tạm gọi là “nhục mệnh vua“. Có lẽ đây là một bằng chứng duy nhất cho thấy Công Cẩn chẳng hề ganh ghét với Ngọa Long chút nào. Nhưng ta luôn thấy Công Cẩn thực sự biết tài mình còn thua xa Ngọa Long và thực sự thán phục Ngọa Long sau khi liên tiếp thất bại trong các cuộc đấu trí và đã bao lần than rằng:

– Gia Cát Lượng thật là thần cơ diệu toán, ta thật không bằng! (Hồi 46, Gia Cát Lượng nhân sương mù lấy tên của Tào Tháo)

Núi Xích Bích - Nơi diễn ra trận Xích Bích

Bi kịch của việc ngàn năm chẳng thanh minh được với hậu thế của Công Cẩn đơn giản từ một điều “Khổng Minh quá tài năng, lại chẳng bỏ Lưu về với Tôn, sẽ là đe dọa cho Tôn” mà thôi. Cái bi kịch ấy được đẩy lên đỉnh điểm với việc Ngọa Long “cầu” được gió đông, giúp cho Công Cẩn đang nằm bệnh vì lo gió đông bỗng chốc choàng dậy điều binh khiển tướng đánh bại Tào trong trận Xích Bích, đưa Du lên hàng ngũ những chiến tướng vĩ đại nhất thời Tam Quốc:

Muốn đánh giặc Tào

Phải dùng hỏa công

Muôn việc đủ cả

Chỉ thiếu gió đông

(Hồi 49)

Và Chu Du nghĩ rằng:

“Người này có phép đoạt được trời đất, hơn cả quỷ thần, nếu không trừ khử đi sau này tất nhiên gây hại cho Đông Ngô ta…” (Hồi 49)

Và sau đó, Chu Du đau lòng nhìn tập đoàn Lưu Bị chẳng tốn một tên quân, một mũi tên hòn đạn đoạt Kinh Châu ngay trước mắt mình, củng cố thế lực vững chắc, trong khi mà quân sĩ của Du hi sinh c��
� ngàn người, bản thân Du cũng bị trúng tên của Tào Nhân, và đây là một điểm báo cho chết của Du, chết một cách uất ức sau khi liên tiếp thất bại trong những cuộc đấu trí khác, nào là Chu Du bị vây khốn ở Kinh Châu khi định dùng kế “mượn đường giệt Quắc” giả đi đánh Tây Thục để cướp Kinh Châu, rồi định dùng em gái Tôn Quyền để nhử Lưu Bị hòng đánh đổi Kinh Châu nhưng đều bị Khổng Minh tương kế tự kế phá hỏng, đến nối mà:

“Chu Du kế giỏi yên thiên hạ

Đã mất phu nhân lại thiệt quân” (Hồi 55)

Câu thơ của Khổng Minh sai quân sĩ đọc nhân việc Lưu Bị ung dung cắp cô em gái xinh như mộng của Tôn Quyền về Kinh Châu trong sự căm tức của Chu Du làm cho mâu thuẫn giữa hai người đẩy lên đỉnh điểm, và sau đó là cái chết của Chu Du. Ai cũng nghĩ Chu Du chết một cách tức tưởi, nhưng thực ra ông chết cũng vì hết lòng lo cho Đông Ngô bởi thế lực của Lưu Huyền Đức ngày một mạnh, đang đe dọa vị trí của Đông Ngô. Và lời than vãn cuối cùng của Chu Du đã trở thành nổi tiếng ngàn năm:

“Trời đã sinh ra Du, sao còn sinh ra Lượng”

Nó cũng khiến cho chúng ta vẫn nghĩ rằng Công Cẩn vì ganh ghét với Khổng Minh mà chết. Mong mọi người hãy rộng lượng với Chu Du, ông ta không phải con người như vậy đâu, tôi tin như thế. Chu Du hết lòng lo lắng cho vận mệnh của Đông Ngô đến nối chết lúc còn khá trẻ (ông chết khi chỉ có 36 tuổi), hình như đó cũng là số mệnh của những vị tướng Đông Ngô luôn yểu mệnh: Tôn Kiên, Tôn Sách, Chu Du, Lã Mông, Lục Tốn…

Xin thưa với mọi người, chẳng phải Gia Cát Lượng là người gây ra cái chết của Chu Du đâu, nếu có chăng, thì đó chính là chủ của ông ta: Tôn Quyền. Lòng tham của Tôn Trọng Mưu thật quá đáng, ông ta làm chủ một vùng Giang Đông rộng lớn, giàu có, lại có Trường Giang hiểm trở làm bình phong, lại vẫn cố tham một mảnh đất Kinh Châu mà ai cũng muốn tranh đoạt. Cái lòng tham ấy đã khiến cho Chu Du phải tận lực, quyết giành lại để vừa lòng chủ. Nếu Tôn Quyền không quá tham lam quyết giành bằng được Kinh Châu, chắc hẳn Chu Du không bị chết sớm một cách tức tưởi như vậy. Có thể nói, Du giống Lượng ở chỗ, cả hai đều hết lòng vì chủ, chết khi mà tận sức mình vì chủ.

Hồi nhỏ, khi tôi mới đọc Tam Quốc, cũng từng nghĩ rằng Chu Du thật nhỏ nhen, ghen ghét với Gia Cát để rồi chết uất ức, nhưng rồi càng đọc tôi càng hiểu rằng, mình nghĩ về Chu Du như thế thì cũng thật nhỏ nhen, hãy rộng lượng một chút với Công Cẩn. Bản thân Gia Cát từng bao lần chết hụt vẫn một lòng rộng lượng với Công Cẩn cơ mà:

Thương ôi Công Cẩn, làm sao sớm khuất,

Ðành lẽ số trời, ai ai cũng xót

Lượng tôi tới đây, kính dâng ly rượu

Anh có linh thiêng xin về chứng giám

Nhớ xưa đi học, chơi với Bá Phù

Nhường cơm sẽ áo, một lòng thương nhau

Nhớ anh còn trẻ, chí cả ngàn trùng

Vẫy vùng một cõi, độc lập Giang Ðông

Quyền cao chức trọng, trấn gi Ba Khâu

Khiếp oai Lưu Biểu, đẹp dạ Ngô Hầu

Diện mạo như ngọc, Tiểu Kiều đẹp đôi

Rể tôi nhà Hán, hỏi được mấy người?

Anh hùng cái thế, chẳng chịu qui Tào

Trời xanh vổ cánh đại bàng bay cao

Phong tư cốt cách, Tưởng Cán ng ngàng

Hết đường thuyết khách, nói cười như không

Thương anh lừng lẩy, văn võ kiêm toàn

Hỏa công một trận, Xích Bích lừng vang

Làm sao sớm khuất, ai hi Chu Lang

Lượng tôi đau xót, huyết lệ hai hàng

Sống đ trung nghĩa, mất được thảnh thơi

Tuổi thọ ba chục, danh lưu muôn đời

Lòng tôi bối rối, vạn mối tơ vò

Tâm nầy lửa đốt, ruột héo gan khô

Giang Ðông tang tóc, ba quân bàng hoàng

Chúa thời tuôn lệ, bạn thời khóc than

Lượng tôi những tính nương tựa vào nhau

Giúp Lưu phò Hán, cùng Ngô phá Tào

Gây thế ỷ dốc, sớm hôm bàn mưu

Lượng tôi kém cỏi, mong trông cậy nhiều

Nào ngờ Công Cẩn, sớm khuất từ đây

Mênh mang chính khí, trời thẳm đất dầy

Anh linh chứng dám, rủ thương lòng này

Từ nay tri kỷ,biết ngỏ cùng ai ?

Thương ôi, có thiêng, xin về thượng hưởng….

Cho lời kết của bài này, tôi lại nói rằng nếu Chu Du và Gia Cát Lượng cùng phục vụ cho một chủ, hai người sẽ là những người bạn tốt của nhau, bởi họ cực kỳ hiểu nhau và đều có lòng vì chủ, vì nước cả. Thực sự, xét về tài năng cầm quân, Du chẳng kém gì Lượng cả, có chăng Du kém Lượng ở một cái đầu phân tích và con mắt tổng quát. Thực sự, Du chưa phải là một đối thủ xứng tầm của Gia Cát, đối thủ xứng tầm của Gia Cát chính là Tư Mã Trọng Đạt kia!

Còn nữa (Bài sau sẽ nói về Tư Mã Ý)…

Những nhân vật hay nhất trong Tam Quốc Diễn nghĩa (Phần 5)

Ngọa Long: Từ nay ta không còn được ra trận đánh giặc nữa. Trời xanh thăm thẳm, hận này biết bao giờ nguôi! 

 

Gia Cát Khổng Minh là nhân vật lịch sử của Trung Hoa, là người được dựng lên nhiều huyền thoại nhất thời Tam Quốc. Trong thực tế, tất nhiên Gia Cát Lượng ngoài đời chẳng thần nhân như trong Tam Quốc Diễn nghĩa, tuy nhiên, đây đúng là một con người huyền thoại, được người dân Trung Quốc tôn thờ như một vị thần thánh và coi như là một trong những tượng đài trí tuệ 5000 năm lịch sử của Trung Hoa. Không phải vì chuyện Tam quốc Diễn nghĩa hay mà người Trung Hoa thần thánh hóa ông như vậy mà chính bản thân con người thật của Gia Cát Lượng đúng là một con người của tài năng, đức độ. Suốt mấy nghìn năm, người dân Tứ Xuyên vẫn thờ Gia Cát Võ Hầu, cung kính gọi ông là Võ Hầu bởi công đức của Võ Hầu đối với người dân vùng Tứ Xuyên vậy. 

Tranh vẽ cổ tả chân dung Gia Cát Lượng

Võ Hầu vốn họ Gia Cát (諸葛), tên là Lượng, tự là Khổng Minh, sinh năm 181, cùng năm sinh với Hán Hiến đế Lưu Hiệp. Khổng Minh mồ côi cha mẹ từ thưở nhỏ, có anh trai là Gia Cát Cẩn làm mưu sĩ cho Tôn Quyền xứ Đông Ngô, và có một em là Gia Cát Quân (chỉ ẩn cư làm ruộng). Gia Cát Lượng vốn quê ở vùng Sơn Đông (gần với quê Khổng Tử), sau đó theo chú là Gia Cát Huyền làm quan ở Kinh Châu dưới trướng Lưu Biểu nên dời đến Nam Dương. Sau một thời gian giúp chú làm quan, Lượng chán cảnh quan trường, bỏ về vùng Long Trung, cày ruộng, đọc sách ngao du sơn thủy. Khổng Minh dựng lều tranh ở đồi Ngọa Long, nên lấy danh hiệu mình là Ngoại Long tiên sinh, thường thích ngâm bài “Lương phụ ngâm“, là một bài ca dao xứ nước Tề xưa:

Tề thành bên cửa dừng chân

Trông vời có phải Đãng Âm phía này

Phải rằng ba mộ còn đây

Rưng rưng chợt hiện chuyện ngày xa xưa

Hỏi quanh: Ai đó bây giờ ?

Điền Cương, Cổ Dã sức dư muôn người

Nam Sơn đủ sức chuyển dời

Ngờ đâu tuyệt địa, ngậm ngùi tài trai

Giữa triều quỉ kế đặt bày

Hai đào ba mạng chuyện này lạ sao!

Hỏi ai bày vẽ mưu sâu

Án Anh tướng quốc đứng đầu Tề quan.

Bài ca dao kể về chuyện quan tướng quốc nước Tề là Án Anh (dưới triều vua Tề Cảnh Công, cách Khổng Minh khoảng 700 năm) bày mưu giết 3 tráng sĩ công lao hiển hách, sức khỏe hơn người, nhưng ba tráng sĩ này đã cậy công lao, suýt gây loạn triều đình.

Chuyện Khổng Minh cưới vợ cũng đã là một chuyện gây hài hước ở xứ Nam Dương. Vợ Khổng Minh là con gái của ẩn sĩ Hoàng Thừa Ngạn, là bạn vong niên với Ngọa Long. Hoàng Thừa Ngạn đã tự mình nói với Ngọa Long rằng “Tôi có một đứa con gái, tuy xấu xí, mắt vàng, mình thấp, nhưng phẩm hạnh và trí tuệ có thể là một cặp với anh“. Nhận lời không do dự, và A Thừa, con gái Hoàng Thừa Ngạn trở thành người bạn trăm năm với Khổng Minh, cho đến lúc chết không có một lời chê trách nào. Dân Nam Dương có câu vè rằng:

Đừng học Khổng Minh cách cưới vợ

Chỉ được A Thừa gái xấu kinh

(Trần Thọ, Tam Quốc Chí)

Chuyện một người thông minh tuyệt đỉnh, đẹp trai hào hoa như Ngọa Long, chịu lấy một bà vợ như vậy, quả là một chuyện lạ! Và chính bà A Thừa này đã giúp Ngọa Long rất nhiều trong việc nâng cao học thức và kiến thức thực tế.

Người đời còn ngoa hơn, khi nói rằng, Khổng Minh chỉ ngồi khểnh lều tranh, đã biết thiên hạ chia ba, biết mọi chuyện trong thiên hạ. Thực ra không hẳn vậy, ta nhớ lại khi Lưu Bị lần đầu đến thảo lư, tiểu đồng của Ngọa Long từng trả lời rằng “Thầy tôi đi ngao du thiên hạ, khi thì trên bến dưới thuyền, khi thì đàm đạo với các nhà sư, khi thì lang bạt thăm bạn hữu, nhanh thì dăm ba bữa, chậm thì vài ba tháng có khi cả năm mới về…“. Đó là cách mà Ngọa Long học tập và thu thập thông tin trong thiên hạ. Vì thế, đừng nên nói rằng, Khổng Minh chỉ nằm khểnh nhà mà dám tự phụ sánh mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị, những vị thừa tướng, đại tướng tài ba thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Chỉ có những người bạn của Ngọa Long, mới công nhận Ngọa Long không hề tự phụ khi nói vậy, thậm chí Tư Mã Huy còn ví Ngọa Long với Trương Lương và Khương Tử Nha. Quả thật, một người mới chỉ 27 tuổi, làm quân sư trong vòng có hơn chục năm, đưa một người từ địa vị thất bại như Lưu Bị thành một ông hoàng đế nước Thục quả cũng xứng đáng với những lời tán thưởng trên của người đời.

Khổng Minh lần đầu cầm quân, đã đốt cháy đội quân tinh nhuệ của Hạ Hầu Đôn ở đồi Bác Vọng khiến cho quân Tào khiếp vía, sang Đông Ngô một mình khuya lưỡi biện bác đánh bại gần chục mưu sĩ đớn hèn của Đông Ngô muốn đầu hàng Tào Tháo, nói khích Chu Du, Tôn Quyền để họ quyết ý liên minh với Lưu Bị đánh Tào, rồi nhân lúc trai cò cắp nhau ngư ông đắc lợi, thừa lúc Chu Du – Tào Tháo nện nhau chí tử, lấy Kinh Châu không tốn một tên quân hay một mũi tên hòn đạn quả là đáng phục lắm thay. La Quán Trung mô tả Gia Cát Khổng Minh “có tài đoạt được trời đất, có phép tài như quỷ thần” (lời Chu Du) với tài hô mưa gọi gió, cầu gió đông nam, đem lại gió đông cho Chu Công Cẩn đánh bại Tào Tháo, bảo vệ Nhị Kiều khỏi “Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều“. Thực chất Khổng Minh đã nói với Lỗ Túc ngay từ đầu mà Chu Du đâu có hiểu “Làm tướng mà không thông thiên văn, chẳng tường địa lý, không thông trận pháp chỉ là tướng xoàng“. Cái việc Khổng Minh cầu gió đông chẳng qua chỉ là làm tăng cái vẻ thần bí, làm tăng vị thế của mình mà thôi, chứ thực ra Gia Cát Lượng vốn đã biết thời tiết sẽ có gió đông nam vào những ngày đó. Các sử gia đời sau không tin sử liệu cũ, cho rằng chi tiết Khổng Minh đoán trước thời tiết là vô lý vì Khổng Minh quê ở Nam Dương, sao biết được thời tiết xứ Giang Nam. Thực ra, Khổng Minh tuy sinh ra ở Nam Dương, nhưng tuổi thơ và thời thanh niên lang thang đây đó học đạo, việc biết thời tiết xứ Giang Đông chẳng có gì là lạ cả. Khổng Minh hơn Chu Du ở cái nhạy cảm đó.

Và rồi, Khổng Minh cứ như một ông thánh sống, chỉ nghe đến Khổng Minh, người ta nghĩ đến thế nào cũng có quỷ kế (đến gian manh như Tào Mạnh Đức cũng ghê răng với chú họ Gia Cát này): nào là 3 lần trêu tức Chu Du, mượn Kinh Châu, đoạt Ba Thục, chiếm Hán Trung, rồi 7 lần bắt-tha Mạnh Hoạch, sáu lần ra Kỳ Sơn, bày bát trận đồ vây Lục Tốn, một mình gảy đàn đuổi Tư Mã Ý, chết rồi vẫn còn dọa Tư Mã Ý chạy chối chết (Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt), rồi hiển thánh núi Định Quân, dự đoán trước việc Đặng Ngải – Trung Hội tranh công nhau mà chết… Những điều ấy khiến người ta cảm nhận về một Khổng Minh như một đạo sĩ tài phép, có mưu kế xuất quỷ nhập thần. Quả thật, đọc Tam Quốc, ta thấy Khổng Minh là nhân vật duy nhất luôn được kẻ thù tán thưởng: nào là “Khổng Minh quả là kỳ tài, ta thật không bằng“, “ có tài đoạt được trời đất, có phép tài như quỷ thần ” (Chu Du), hay “Khổng Minh quả thật là Ngọa Long, ta thực kém xa lắm” (Lục Tốn), “Người này mới thực là kỳ tài thiên hạ” (Tư Mã Ý)… Mỗi khi ai đó thua Khổng Minh, họ đều tự hiểu tài của Khổng Minh và than trời tự trách mình tài năng thua Gia Cát. Đỉnh điểm đó là lời than còn vọng đến ngàn thu của Chu Du “Trời đã sinh ra Du, sao còn sinh ra Lượng“.

Hình ảnh huyền thoại của Không Minh với áo cánh hạc, quạt lông, khăn lượt

Khổng Minh được đời sau ca tụng nhiều không chỉ ở tài cầm quân hay kế xuất quỷ nhập thần, trong lịch sử, ông là một nhà chính trị vĩ đại, giúp ổn định nước Thục. Theo Lưu Bị vào Xuyên, Gia Cát Lượng xây dựng đất Ba Thục từ một nơi lộn xộn, không còn pháp luật thành một xứ giàu có của Trung Hoa, lòng dân ổn định. Ông biết nghe lời những người trung nghĩa như Triệu Vân, đem ruộng đất tốt trả cho dân chúng, dùng thuật đánh vào lòng người, ổn định tình hình miền Nam (7 lần bắt tha Mạnh Hoạch). Dân chúng vùng Vân Nam, Quý Châu nhớ đức Gia Cát đến mức lập đền thờ Gia Cát, gọi là “Cha Hiền”. Nhiều người khi đọc xong Tam Quốc, thường cho rằng Khổng Minh không biết đào tạo người kế tục, nhưng thực tế không phải vậy. Trong cuốn sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ, Trần Thọ đã ghi lại việc Khổng Minh đào tạo và trọng dụng bao người tài xứ Tây Thục: nào là Tưởng Uyển, Phí Vĩ, Đổng Doãn ở tài trị quốc, Đặng Chi ở tài ngoại giao, Khương Duy, Liêu Hóa, Trương Dực, Mã Đại, Ngụy Diên những tướng tài cầm quân… Nước Thục bị mất không phải ở việc Khổng Minh không đào tạo nhân tài mà do lỗi của Lưu Thiện mà thôi. Hơn nữa, không ai có đủ tài được như Gia Cát cả. Việc một người có tư thù với Khổng Minh là nhà sử học Trần Thọ (cha có thù với Gia Cát Lượng) viết một cách công tâm ca ngợi ông càng cho thấy công đức của Gia Cát Lượng với nước Thục như thế nào. Ta nhớ lại câu chuyện 2 người là Lý Nghiêm và Liêu Lập. Lý Nghiêm là một người được Lưu Bị ủy thác cùng gánh vác với Khổng Minh trách nhiệm giúp nước Thục, Lý Nghiêm phụ trách việc quân lương, vì gian dối giả tin “Đông Ngô vào cướp nước” để Khổng Minh đang liên tiếp thắng trận tại Kỳ Sơn phải rút về. Hậu chủ Lưu Thiện giận muốn giết, Khổng Minh xin tha, giáng xuống làm thứ dân, dùng con của Nghiêm là Lý An thay chức. Liêu Lập là người có tài, nhưng luôn tự phụ khinh người, hống hách không coi ai ra gì, còn tự nhận là “Khổng Minh thứ 2”, bị Khổng Minh cách chức đuổi đi. Đến khi Khổng Minh mất, hai người này đau buồn đến chết là vì sao? Đơn giản vì họ hiểu rằng nếu Khổng Minh còn sống thì họ còn có cơ hội được trọng dụng, chứ nếu Khổng Minh chết đi thì không ai biết tài và tha thứ cho họ cả. Tài và đức của Khổng Minh là ở chỗ đó. Khổng Minh đem quân bình nam, đánh Mạnh Hoạch, bảy lần bắt bảy lần tha (thất cầm túng Mạnh Hoạch), đánh vào nhân tâm làm cho người nam cảm ân đức suốt đời không phản lại, đó chẳng phải là tài năng xuất chúng sao? Ta nhớ lại chuyện Đông Chu Liệt Quốc, Quản Trọng đưa Tề Hoàn Công lên làm bá chủ chư hầu đều là việc đánh vào nhân tâm cả, vậy Khổng Minh cũng đáng so với Quản Trọng lắm chứ? Nhạc Nghị làm tướng nước Yên, đánh bại nước Tề, đưa Yên Chiêu Vương lên làm chủ chư hầu, Khổng Minh đem 1/3 giang sơn Trung Hoa loạn lạc thành nước Thục giàu có cho họ Lưu, cũng đâu kém Nhạc Nghị? Việc ngồi trong tướng phủ, vạch kế sách đánh bại năm đạo quân xâm chiếm nước Thục vừa có tang, hóa phải Nhạc Nghị dễ dàng mà làm được?

Có thể nói, trong suốt cuộc đời mình, Gia Cát Lượng có 3 cái sai lầm lớn:

– Đã không sớm nhìn ra con người vũ phu của Quan Vũ, để làm mất Kinh Châu, Quan Vũ bị giết dẫn đến việc tan vỡ liên minh Lưu-Tôn.

– Không kiên quyết can ngăn Lưu Bị đánh Đông Ngô, dẫn đến việc 60 vạn quân Thục bị đốt chết ở Hào Đình, nguyên khí nước Thục bị tổn thất nặng nề, khó lòng khôi phục được.

– Sai lầm sử dụng Mã Tốc ở trận Nhai Đình làm mất vị trí trọng yếu, khiến cho việc ra quân của quân Thục trở nên rất khó khăn.

Và rồi, dù đã cố gắng hết mình nhưng

Kỳ Sơn chỏ ngọn cờ đào

Một tay mong chống trời cao ngàn trùng

Ngờ đâu vận đã cùng khôn gượng

Nửa đêm gò Ngũ Trượng sao sa…

Khổng Minh cố gắng vì nước đến chết mới thôi. Đến lúc sắp chết vẫn còn sắp xếp mọi chuyện an bài cho nước Thục. Lời cuối cùng của Khổng Minh thật là xúc động, khiến tôi cảm phục ông từ khi tôi mới chỉ là một chú bé con còn chưa hiểu hết chuyện đời: “Từ nay ta không còn được ra trận đánh giặc nữa, trời xanh thăm thẳm, hận này biết bao giờ nguôi“. Khổng Minh chết đi, để lại bao đau đớn cho tướng sĩ nước Thục, Hậu chủ Lưu Thiện xem xét gia sản của ông thì quả thực đúng như lời ông dâng biểu về trước khi lâm chung, nhà ông thật thanh đạm, Khổng Minh không hề đem quyền thế của mình để biến nhà mình thành một gia tộc giàu có mà trái lại bắt con cháu mình tự làm ăn nuôi thân. Khổng Minh chết khiến bao người Thục đau buồn, có người tự vẫn mà chết (tiêu biểu là Liêu Lập và Lý Nghiêm). Khổng Minh chết đi vẫn để lại cho đời bao di sản: nỏ liên châu (bắn 10 mũi tên một lúc), công trình trâu gỗ ngựa máy (giúp việc vận tải trở lên nhẹ nhàng hơn), Bát trận đồ, Xuất sư biểu (áng văn vẫn được coi là một trong những thiên cổ hùng thư của Trung Hoa, một biểu xin ra trận thật xúc động lòng người và đầy hùng khí), Âm phù kinh… Người đời sau mãi mãi ca tụng Gia Cát, các đối thủ của ông cũng thương tiếc ông. Hình ảnh Gia Cát Khổng Minh với “áo cánh hạc, đầu đội khăn lượt, tay cầm quạt lông, ung dung thanh thoát như một vị tiên” đã trở thành hình ảnh bất tử của Khổng Minh (có nhiều đạo sĩ tu tiên đời sau đem hình tượng Võ Hầu để tôn thờ làm vị thánh Đạo Giáo). Người xứ Tây Xuyên hàng ngàn năm sau khi Võ Hầu mất, vẫn còn giữ tục đội khăn trắng để tưởng nhớ Võ Hầu. Quả thật, Khổng Minh xứng đáng là “Vạn đại quân sư”, xứng đáng được người đời tán thưởng. Bài viết này kết thúc với bài thơ của Đỗ Phủ (nhà thơ sau Khổng Minh hơn 600 năm) viếng Khổng Minh ở đền thờ của Gia Cát Võ Hầu ở xứ Tây Xuyên.

Thục tướng từ đường hà xứ tầm

Cẩm quan thành ngoại bách sâm sâm

Ánh giai bích thảo tự xuân sắc

Cách diệp hoàng ly không hảo âm

Tam cố tần phiền thiên hạ kế

Lưỡng triều khai tế lão thần tâm

Xuất sư vi tiệp thân tiên tử

Trường sử anh hùng lệ mãn khâm

Tạm dịch:

Đền thừa tướng ở đâu đây

Mé ngoài thành Cẩm mấy cây bách già

Cỏ xuân ánh mặt thêm hoa

Oanh vàng trong lá hững hờ véo von

Vì dân ba lượt tìm luôn

Hai triều giúp rập tấc son lão thần

Quân chưa thắng đã từ trần

Anh hùng nhớ đến lệ tràn thấm khăn

Đền thờ Gia Cát Lượng ở Thành Đô, Tứ Xuyên

 

Còn nữa…

Bài sau sẽ nói về 2 đối thủ của Gia Cát Khổng Minh: Chu Du (Chu Công Cẩn) và Tư Mã Ý (Tư Mã Trọng Đạt)

Những nhân vật hay nhất trong Tam Quốc Diễn nghĩa (Phần 4)

Lưu Huyền Đức: Anh hùng thiên hạ chỉ có sứ quân và Tháo này thôi!

Tôn Quyền: Sinh con, hãy như Tôn Trọng Mưu

Phần này sẽ nói về hai vị chúa trong Tam Quốc, hai trong 3 “chân vạc” của thế thiên hạ tam phân, cũng là hai vị chỉ huy đối đãi người theo cách “nhân nghĩa”. Lưu Huyền Đức được coi là dòng dõi chính thống Hán triều, là con cháu của vua Hiếu Cảnh hoàng đế, còn Tôn Quyền thừa kế cơ nghiệp cha anh hùng cứ sứ Đông Ngô giàu đẹp, lúc thì theo Lưu chống Tào, lúc lại cùng Tào đánh Lưu, và cuối cùng cũng theo dòng Trường Giang “bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng” hết. Thú thật, tôi không thích hai nhân vật này lắm, nên không muốn viết nhiều về hai người này.

1. Lưu Bị – Anh hùng thiên hạ chỉ có sứ quân và Tháo này thôi!

Quả thật, Lưu Bị rất xứng danh với lời khen tặng này của Tào Tháo. Nhiều người cho rằng Lưu Bị không xứng đáng anh hùng cũng có lý riêng, tôi sẽ nói rõ hơn về “anh hùng” của Lưu Bị.

Photobucket - Video and Image Hosting

Lưu Bị, tên chữ là Huyền Đức, là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương, cháu chắt xa của Hiếu Cảnh Hoàng đế (Các Hoàng đế đầu tiên nhà Hán là Cao Tổ, Hiếu Huệ đế, Văn Đế, Cảnh đế, Vũ đế …). Thực chất Huyền Đức là tầng lớp quý tộc suy vi của Hán tộc, truyền đến đời Huyền Đức thì đã suy, nên Huyền Đức sinh ra trong nghèo khổ, cha mất sớm, phải đi làm nghề dệt chiếu đóng dép để kiếm ăn. Sinh thời, Huyền Đức là một người con có hiếu, thờ Lư Thực và Trịnh Huyền làm thầy, kết bạn với Công Tôn Toản. Lưu Bị đã sớm bày tỏ ý chí của mình “Sau này lớn lên ta làm vua cũng sẽ làm cỗ xe như thế” (hồi 1 – nói về cây dâu nhà Huyền Đức). Tướng mạo Lưu Huyền Đức đã thấy một người khác thường “mình cao tám thước, tay dài quá đầu gối, mắt nhìn thấy tai”, quả thật khác thường. Tính Huyền Đức nghiêm trang, nhưng khoan dung, không thích đọc sách. Nhiều người không thích nhân vật này (tôi cũng vậy) bởi cho rằng Huyền Đức là người không biết lãnh đạo, lại có vẻ đạo đức giả và an phận chờ thời. Nhưng theo tôi, ta cần nhìn khách quan về nhân vật này, rằng ông ta cũng xứng là một anh hùng như Tào Tháo khen ngợi vậy.

Từ lúc còn khó khăn, lúc mà quân không nổi nghìn người, tướng chỉ có Quan, Trương, Triệu, Huyền Đức đến Từ Châu giúp Đào Khiêm, và Khiêm đã nhận ngay ra Huyền Đức là anh hùng thời nay: khoan dung, độ lượng và biết thu phục nhân tâm. Ngay lập tức, ông đem Từ Châu dâng lên Lưu Bị mà không chút nghi hoặc, nhưng ba lần Đào Khiêm nhường Từ Châu cho Lưu Bị, thì ba lần Lưu Bị từ chối. Ai cũng bảo Lưu Bị giả nhân giả nghĩa, ngụy quân tử. Nhưng theo tôi, ta cần nhìn vào sự thật để khẳng định rằng, Lưu Bị từ chối nhận Từ Châu là hoàn toàn thực lòng, bởi ông ta là người biết nhìn xa. Từ Châu là một trong 9 châu của Trung Hoa (Thanh, U, Từ, Đại, Ký, Ích, Kinh, Dự, Lương). Thời điểm đó, Từ Châu là một địa điểm dân giàu, đất rộng, các thế lực luôn nhòm ngó: Viên Thuật ở Hoài Nam, Lã Bố, Tào Tháo… Chắc chắn Lưu Bị cũng muốn có một vùng đất như thế để làm chủ. Nhưng lúc đó, Lưu Bị quân không đầy một ngàn, tướng chỉ có Quan, Trương, Triệu, trong tay không có lấy một quân sư hỗ trợ, nếu làm chủ Từ Châu, ông ta sẽ là chỗ để cho các thế lực tấn công mà không thể nào chống đỡ nổi. Lúc này Lưu biết mình còn yếu, muốn nằm yên chờ thời cơ và xây dựng lực lượng, và Từ Châu không phải là địa điểm an toàn. Quả nhiên, sau đó vì bất đắc dĩ, Huyền Đức phải nhận Từ Châu do Đào Khiêm chết, Lã Bố dễ dàng chiếm lấy Từ Châu mà Huyền Đức không có khả năng chống đỡ.

Lưu Bị khoan dung, biết lợi dụng nhân hòa và đối đãi người thực tâm. Cách dùng người của ông là dùng thì phải tin. Những người theo ông luôn hết lòng theo từ những người thưở ban đầu như Tử Long, Tôn Càn, My Chúc, Mã Lương… và sau này, ta nhớ Hoàng Quyền ở Tây Thục khi đầu hàng Huyền Đức, cùng Huyền Đức đánh Đông Ngô, vì bị vây khốn, bất đắc dĩ phải hàng Ngụy, Huyền Đức vẫn đối đãi tốt với gia đình Hoàng Quyền và Quyền vẫn luôn ca tụng Huyền Đức. Điều đó cho thấy ông ta có lòng nhân đối đãi kẻ sĩ thật sự. Giữa lúc quân tình nguy cấp, gia quyến thất lạc, mọi người đều bảo Tử Long bỏ theo hàng Tào Tháo, thì Lưu Bị vẫn một lòng tin vào Tử Long rằng “Tử Long theo ta đã lâu, quyết không bao giờ phản ta cả“. Đây là điểm đáng ca ngợi, và là điểm sáng nhất của Lưu Bị.

Quả thật, thất bại liên tiếp với Tào Tháo khiến Lưu luôn khao khát một vị quân sư tài năng để giúp mình điều binh khiển tướng. Phải nói thật là Lưu thua xa Tào Tháo ở tài cầm quân. Huyền Đức có vẻ giống ông tổ của mình là Lưu Bang, đối đãi người cực hậu, tin người và hoàn toàn để cho các tướng của mình phát huy tài năng (nhưng thua xa Lưu Bang ở “tài” ham gái đẹp và uống rượu, hay chửi tục). Từ Thứ là người đầu tiên mà Lưu Bị xử dụng, ngay lập tức tin tưởng vào tài năng của Nguyên Trực. Nhưng rồi Tào Tháo dùng mẹ Từ Thứ làm sức ép, Từ Thứ vội vàng không suy nghĩ (đúng như Thủy Kính Tiên sinh – Tư Mã Huy nói Từ mẫu là người trung hậu, nếu thấy con bỏ Lưu nhất định sẽ xấu hổ mà tự vẫn) bỏ Lưu Bị về mong cứu mẹ, nhưng ngược lại còn làm mẹ bị chết. Trước đó, có người từng khuyên Lưu Bị cố giữ Từ Thứ ở lại, Tào Tháo sẽ giết mẹ Từ Thứ và Từ Thứ sẽ càng căm thù Tào Tháo, hết sức phò tá Lưu Bị, nhưng Huyền Đức không làm vậy càng cho thấy ông ta quý trọng người tài thế nào. Chia tay Từ Thứ, Huyền Đức nói rằng “Tôi mất ông, như bị mất tay chân, dù có gan rồng tủy phượng ăn cũng không thấy ngon!“, và cảm tấm lòng của Huyền Đức, Nguyên Trực đã tiến cử Ngọa Long với Huyền Đức và câu chuyện “Tam cố thảo lư” đã trở thành điển tích muôn đời, được lấy làm tấm gương về cầu người hiền tài của Lưu Bị.

Lúc gặp Ngọa Long, Lưu Huyền Đức đã 47 tuổi, còn Ngọa Long mới 27 tuổi, có thể nói Huyền Đức đã chinh chiến nửa đời người, nếu xét lẽ thường sẽ cho rằng mình kinh nghiệm trận mạc, còn anh chàng kia cũng chỉ là “ngựa non háu đá”, nhưng không, Huyền Đức hoàn toàn tin tưởng con người “cao ngạo”, tự nhận mình sánh ngang “Quản Trọng, Nhạc Nghị” kia, và coi rằng “Ta gặp Khổng Minh như cá gặp nước”, “Khổng Minh là thầy ta” thì đủ thấy Huyền Đức trọng người tài thế nào. Sự tin tưởng vào người tài ấy đã phát huy tác dụng ngay lập tức khi Khổng Minh giúp Lưu Bị trở thành một trong 3 cái chân kiềng thời Tam Quốc, trở thành Hoàng đế nước Thục. Một cái hay là Lưu còn dung được cả 2 con rồng (Ngọa Long) – Phượng (Phượng Sồ) trong một trướng, cùng bàn kế sách, Phượng Sồ góp phần quan trọng trong chiến dịch Tây Xuyên, Ngọa Long trong màn quyết định thắng lợi ngoài ngàn dặm. Ai nói Lưu Bị không có tài? Ông ta bất tài về điều binh khiển tướng, nhưng lại có tài về việc sử dụng người tài và tin người tài. Huyền Đức còn có một điểm hơn Gia Cát ở chỗ nhận ra Mã Tốc là người chỉ giỏi lý thuyết xuông, hay khoe khoang quá sự thật, không có thực tài. Sau này, khi Gia Cát gạt lệ chém Mã Tốc, khóc thương Mã Tốc thì ít mà khóc vì nhớ chủ xưa, khóc vì quên lời dặn của chủ là nhiều. Tôi phản đối với những người có quan điểm rằng Lưu Bị là bất tài, mà trái lại, ông ta rất có tài là khác: biết nhẫn nhịn chờ thời cơ, biết trọng dụng nhân tài, biết khoan dung đối với kẻ dưới.

Bản thân Lưu Bị long đong vất vả nửa đời người, cũng từng suýt bị vinh hoa và gái đẹp làm quên mất. Khi đến cưới vợ ở Đông Ngô, Chu Du từng phân tích “Lưu Bị vất vả nửa đời người, nếu ta đem vinh hoa, cùng với phu nhân ra nhử, hạnh phúc có rồi, Lưu Bị tất dần dần mà quên lũ ở Kinh Châu“. Và quả thật, vui duyên mới, suýt nữa Huyền Đức quên mất Kinh Châu, may có Tử Long theo mật kế của Khổng Minh thức tỉnh.

Chuyện Lưu Bị đem con phó thác cho Khổng Minh cũng là một điển tích:

Thành Bạch Đế mấy lời thấm thót

Tình thác cô chua xót nhường bao

Kỳ Sơn trỏ ngọn cờ đào

Một tay mong chống trời cao nghìn trùng…

Đó là mấy câu thơ mô tả việc Lưu Huyền Đức lúc sắp lâm chung ở Bạch Đế thành đem con mình là Lưu Thiện phó thác cho Gia Cát Khổng Minh, dặn các con mình coi Khổng Minh như cha, khiến cho Khổng Minh cảm kích tấm lòng, cố hết sức mình vì nước đến chết mới thôi. Và điều quan trọng ông dặn các con mình vẫn là “đừng thấy điều thiện nhỏ mà bỏ, cũng đừng thấy điều ác nào mà cứ làm” cho thấy Lưu Huyền Đức muốn các con mình học mình ở đức thu phục nhân tâm. Người đời vẫn bàn tán khác nhau về chuyện Lưu Bị sắp chết nhường ngôi cho Gia Cát Lượng. Theo cuốn sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ, đúng là trước lúc lâm chung ở Bạch Đế thành, Lưu Bị có nói với Gia Cát Lượng “Tài năng khanh gấp 10 lần, nếu con ta ngu dốt quá thì khanh hãy lên làm thay nó“. Ta hãy nhớ, cha của Trần Thọ vốn là 1 tướng dưới quyền Mã Tốc trong trận thua Nhai Đình và bị cách chức về quê, trong lòng rất thù hận Khổng Minh, đòi con là nhà viết sử phải nói bêu xấu về Khổng Minh, nhưng Trần Thọ với lương tâm của một nhà viết sử, đã viết rất khách quan về Gia Cát Lượng, và xác nhận việc Lưu Bị có ý nhường cho Khổng Minh là sự thật. Hiểu con không ai hơn cha, Lưu Bị quá hiểu con mình ngu dốt, lại không biết nghe lời phải, nếu không có một người như Khổng Minh lãnh đạo thì cơ nghiệp nước Thục của mình sẽ thành mây khói, thậm chí mồ mả mình cũng có khi bị quật lên không yên ấy chứ. Thế nên không hẳn lừa dối mà nói Khổng Minh lên ngôi. Hơn nữa, Lưu Bị cũng hiểu quần thần nhất loạt ủng hộ họ Lưu, nếu Gia Cát có định cướp ngôi cũng không danh chính ngôn thuận, nên yên tâm phó thác con mình cho Gia Cát, bắt con mình coi Gia Cát như cha. Qua việc này, ta thấy Lưu Bị hiểu cộng sự của mình thế nào.

Cái chết của Lưu Bị thực chất là việc chọn nghĩa cho lời thề đào viên, và cũng báo trước cho sự sụp đổ của nước Thục sau này, bởi thất bại của Lưu Bị ở trận Hào Đình khiến cho nguyên khí nước Thục bị tổn thất nặng nề (hơn 60 vạn quân bị đốt chết), mất biết bao tướng tài và tiền của. Thế mới thấy, dù ngày thường nghe lời Khổng Minh, Triệu Vân là vậy, mà khi vì thù hận, quên cả lời nói trung, không nghe lời phải.

Nói tóm lại, ta nên đánh giá tài năng và anh hùng một cách khách quan. Xét về mặt tài năng, Lưu không có cái tài thơ phú hay cầm quân như Tào Tháo, không có mưu lược như Khổng Minh, cũng không chói ngời trung nghĩa như Quan Vũ, lại chẳng thẳng ruột ngựa như Trương Phi, nhưng Lưu Bị phải thừa nhận là người khoan dung, biết dựa vào lòng dân và dựa vàonhân tài, biết nhìn người và sử dụng người. Cái anh hùng của Lưu Bị ở chỗ đó. Chúng ta không thích ông ta vì không có những tính cách chói ngời, nhưng đừng vì thế mà đánh giá ông ta kém cỏi không anh hùng.

2. Tôn Quyền: Sinh con, hãy như Tôn Trọng Mưu

Có thể nói, nếu như ai đó không thích Lưu Bị, thì cũng khó mà thích được Tôn Quyền. Thực ra mà nói, Đông Ngô không có mấy người có tính cách hay đáng để cho độc giả thích thú, ngoài những cuộc đấu chí giữa Chu Du và Gia Cát.

Photobucket - Video and Image Hosting

Tôn Quyền, tự Trọng Mưu, là con thứ 2 của Tôn Kiên, là em của Tôn Sách, thừa kế cơ nghiệp cha ông, hùng cứ 9 quận 81 châu xứ Đông Ngô giàu có và tươi đẹp. Khi mới lên ngôi, ông mới có 18 tuổi. Lúc đó, Tôn Sách vì đang bị thương do các gia thần của Hứa Cống ám sát, và lại nhân chuyện giết đạo sĩ Vu Cát mà nổi bệnh chết đột ngột, để lại ngôi vị cho em mình. Tôn Quyền lên ngôi, củng cổ lại Giang Đông, tin dùng tướng tài Chu Du, nghe lời Lỗ Túc, lại biết dung hòa với bọn quan văn Trương Chiêu… làm cho Giang Đông ngày càng thịnh vượng. Có thể nói rằng, Tôn Quyền có công rất lớn cho sự thịnh vượng và giàu có ở xứ Giang Nam Trung Hoa từ đó về sau. Tôn Quyền hơn hẳn người anh của mình về tài trị quốc an dân. Tôn Sách đúng như người ta ví như Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ, nhưng chỉ là hạng vũ phu, cậy tài và nóng nảy, thua xa người em mình khoan hòa độ lương, mưu lược và biết dùng người tài.

Trong cuộc chiến Xích Bích, Tôn Quyền rất sáng suốt, nghe lời Lỗ Túc, Chu Du và Gia Cát Lượng liên hợp với Lưu Bị đánh bại 83 vạn đại quân Tào Tháo, lúc ấy, ông cũng chỉ mới có 27 tuổi (bằng tuổi Khổng Minh). Khổng Minh từng đánh giá Tôn Quyền “Người này mắt biếc râu tía, chỉ thích nói khích chứ không thể thuyết phục được“.

Tôn Quyền dùng người có cái gì đó giống Lưu Bị, cũng rất khoan dung và tin người. Giữa lúc quân tình nguy cấp, 70 vạn quân Lưu Bị đánh Đông Ngô, ai cũng khiếp vía, Tôn Quyền tin tưởng một anh tướng “trẻ ranh” Lục Tốn, trao toàn quyền điều binh khiển tướng cho anh học trò này đánh bại Lưu Bị đúng là một chuyện lạ. Có thể nói rằng, không cần nói nhiều hơn nữa về cái tài dùng người của Tôn Quyền. Một điểm kém duy nhất xứ Đông Ngô là không có lấy một mưu sĩ đáng kể để giúp các đại tướng cầm quân. Gia Cát Cẩn, Trương Chiêu… chỉ là những hạng thầy đồ giữ nhà mà thôi, đâu so được với Gia Cát Lượng nơi đất Thục, Quách Gia, Giả Hủ… đất Ngụy. Đó là nguyên nhân nước Ngô của Tôn Quyền dù có những vị đô đốc tài ba như Chu Du hay Lục Tốn vẫn chỉ biết khư khư chui trong vỏ bọc Trường Giang hiểm trở mà không vượt ra ngoài thiên hạ để tranh cao thấp (Lục Tốn đánh được Lưu Bị đến tấn công mình, nhưng khi đánh nhau với Tào Tuấn thì đại bại, phải rút quân về vội).

Điểm kém nhất của Tôn Quyền (và nước Ngô) là quá tham lam. Tham đến vô lý, tham đến độ Chu Du uất ức mà chết. Nước Ngô cai quản vùng đất phì nhiêu, dân giàu đất rộng, 9 quận 81 châu, nhưng vẫn cố tham mảnh đất Kinh Châu mà người người tranh đoạt để rồi gây xích mích với Lưu Bị. Sau trận chiến Xích Bích, Khổng Minh dùng kế đoạt Kinh Châu, Tôn Quyền trắng trợn đến đòi, có thể nói là một sự vô lý, và thể hiện lòng tham quá đỗi. Xét về lý, Kinh Châu là đất của Lưu Biểu, Lưu Bị là em Lưu Biểu, giúp cháu là Lưu Kỳ cai quản Kinh Châu cơ mà. Vậy mà năm lần bảy lượt đến ép trả, khiến cho Khổng Minh phải nghĩ ra câu chuyện tiếu lâm ngàn năm “Lưu Bị mượn Kinh Châu” đã trở thành trò cười cho thiên hạ. Sự tham lam ấy dẫn đến cái chết tất yếu của Chu Du, và cái chết của Quan Vũ, cái chết oan uổng của Trương Phi, và sau này Tôn Quyền hối hận lại thì đã muộn. Ông ta chỉ hiểu cái giá của việc này sau khi Lưu Bị chết, Khổng Minh đặt giao bang, mới hiểu phải liên kết với nước Thục nếu không muốn bị nước Ngụy nuốt chửng. Tuy nhiên, nước Ngô của Tôn Quyền vẫn luôn sai lầm. Trong lúc Gia Cát Lượng cố chết đánh Tào ở phía Tây, Tôn Quyền ung dung khoanh tay xem hai con hổ đánh nhau, chờ con nào thua sẽ nhảy vào cắn xé. Nhưng Tôn Quyền lại sai lầm, bất kỳ con hổ nào thắng, sẽ mạnh khủng khiếp và nuốt chửng cả Giang Đông của Tôn Quyền. Và cái hậu quả đó quả thật nhỡn tiền khi nước Ngụy xóa xổ nước Thục, thuận đường vượt Trường Giang diệt nước Ngô, giấc mộng đế vương của nước Ngô mãi mãi chấm dứt ngàn thu.

Photobucket - Video and Image Hosting

Còn nữa…

Những nhân vật hay nhất trong Tam Quốc Diễn nghĩa (Phần 3)

Trương Phi: Đại náo cầu Trường Bản

Hứa Chử, Điển Vi: Hai con hổ dại chốn Tào doanh

Đây là 3 mãnh tướng nổi danh trong Tam Quốc với sức khỏe ghê người, muôn người khôn địch, và lòng dũng cảm tuyệt vời. Trương Phi luôn được người đời nhắc đến với tính nóng như lửa, lòng dạ ngay thẳng, nổi danh ngay từ thưở ban đầu. Điển Vi và Hứa Chử là những vị tướng đầu tiên của Tào Tháo với sức khỏe vô địch. Hứa Chử được gọi là Hổ dại, Điển Vi chỉ xuất hiện có thoáng qua ở đầu Tam Quốc nhưng cũng làm người ta khiếp sợ. Mời các bạn cùng tôi nói về 3 nhân vật này.

1. Lòng dạ ngay thẳng như Trương Phi ( Không biết viết tên như vậy sai hay đúng, ai đó biết sửa hộ nhé Image)

Photobucket - Video and Image Hosting

Cành lá khéo in hình Dực Đức

Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công

(Thơ Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù)

Nhà văn Lỗ Tấn từng nhận xét “Tôi rất kính trọng Trương Phi, lòng dạ ngay thẳng, tuy lỗ mãng nhưng không thô lỗ và không có trí óc như Lý Quỳ“. Quả thật vậy, đọc hết Tam Quốc mới thấy, Trương Phi lòng dạ ngay thẳng, tuy có lỗ mãng nhưng cũng rất biết suy xét và biết suy nghĩ chứ không kiểu không biết suy nghĩ như Lý Quỳ.

Trương Phi tên chữ là Dực Đức, người đất Yên (nay là tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), sự xuất hiện của Trương Phi bằng câu hỏi giành cho Lưu Bị đã khiến người đọc chú ý “Đại trượng phu như ông không ra đánh giặc giúp nước, còn đứng đó thở dài làm gì?” (Hồi 1) và hình dáng Trương Phi khiến ta dễ dàng nhận ra một ông tướng “đáng sợ”: “mình cao tám thước, mắt tròn, râu hùm, hàm én, dáng như ngựa phi…“, đúng là Trương Phi. Chí lớn gặp chí lớn, Trương lập tức mời Lưu và Quan về đào viên nhà mình kết nghĩa anh em, cùng giết giặc giúp nước. Chỉ nhìn hình dáng của Phi thôi, nhiều tướng giặc đã khiếp sợ rồi. Ấn tượng đầu tiên về tính cách Trương Phi đến sớm hơn nhiều so với hai người anh của mình. Khi theo anh làm quan huyện, viên đốc bưu về kinh lý hạch sách đòi ăn đút lót, hiếp bức dân lành, Phi nổi giận xông thẳng vào mà hét lên rằng “Thằng mọt dân kia, mày có biết tao là ai không?” (Hồi thứ 2) và lôi thẳng ra trói vào tàu ngựa, đánh cho một trận mà có lẽ lần sau viên đốc bưu này chỉ nghe đến cái tên Trương Dực Đức chắc đã són đái ra quần rồi. Câu chửi của Trương Phi là “Thằng mọt dân” mà không phải là “thằng khốn”, “thằng thất phu”… cho thấy Dực Đức quả thật trong lòng luôn muốn vì dân vì nước, những kẻ nhũng nhiễu dân lành bị ông gọi là “mọt dân”. Với Dực Đức, cái chức huyện lệnh này chẳng là cái quái gì hết, và ba anh em bỏ chức mà đi.

Trương Phi ngay thẳng, thấy sự bất bình thì không nhịn được. Khi Lưu Bị thương Lã Bố không nơi nương tựa liền đón về Từ Châu, lại còn định nhường chức Từ Châu mục cho Lã Bố, Dực Đức là người đầu tiên can ngăn. Và khi gặp nhau, Lưu Bị nhún nhường gọi Lã Bố là anh, Lã Bố thật vô phép, gọi ngay Lưu Huyền Đức là “Hiền đệ”, và ngay lập tức bị một câu chửi vào mặt, và người chửi đó, tất nhiên là Trương Dực Đức “Anh tao cành vàng lá ngọc, mày là cái thá gì mà gọi anh tao như vậy” (hồi 14). Trong thâm tâm của Dực Đức, Lã Bố là kẻ vũ phu, lại là loại phản phúc, ham danh phú quý, sẵn sàng phản lại. Dực Đức gọi Lã Bố là “Thằng ba họ”, đúng vậy, Lã Bố đúng là ba họ còn gì. Ban đầu mang họ Lã, sau đó làm con nuôi của Đinh Nguyên (một trung thần nhà Hán) thì có khác gì mang họ Đinh, sau đó lại giết Đinh đi theo Đổng Trác, nhận Đổng Trác là nghĩa phụ, rồi lại phản lại, giết chết Đổng Trác. Những kẻ như vậy đối với Dực Đức thật không đáng một xu. Dù biết Lã Bố sức khỏe và võ nghệ vô địch, nhưng Dực Đức vẫn khinh thường “Lã Bố! Lại đây tao với mày đánh nhau ba trăm hiệp!” (hồi 14) và cái tất yếu của sự khinh thường ấy là bị Lã Bố cướp mất Từ Châu.

Photobucket - Video and Image Hosting

Hồi thứ 28 (Chém Sái Dương anh em đoàn tụ. Đến Cổ thành chúa tôi an vui) được xem là một trong những hồi hay và xúc động trong Tam Quốc. Quan Vân Trường một lòng sắc son, đem hai chị dâu “quá ngũ quan trảm lục tướng”, khi nghe Dực Đức đang ở Cổ Thành, lập tức cùng Tôn Càn, Chu Thương, Liêu Hóa đưa hai chị đến tìm. Quả thật Phi đang ở Cổ Thành, nhưng trong lòng Phi lúc đó chỉ biết Quan Vũ đã hàng Tào hưởng vinh hoa phú quý, thế là khi nghe Tôn Càn báo Vân Trường đang đến, Phi lập tức “không nói không rằng, mặc giáp, cầm mâu nhảy lên ngựa ra ngoài thành“. Và khi Vân Trường đến thì thấy Dực Đức “râu hùm vểnh ngược, mắt trợn tròn, hò hét như sấm, múa xà mâu phóng lại đâm Quan Công” rồi chửi Vân Trường rằng “Mày bỏ anh, hàng Tào, còn đến tìm tao làm gì“. Trong lòng Dực Đức, lời thề đào viên luôn được đưa lên hàng đầu, phản anh hàng Tào là một điều không thể tha thứ. Chỉ khi được hai chị dâu giải thích, xem Quan Công giết Sái Dương và được chính những người lính Tào Tháo kể cho nỗi khổ của Quan Vũ nơi Hứa Xương, Dực Đức lập tức hiểu ra và “rỏ nước mắt khóc, sụp xuống lạy Vân Trường“. Lúc đó có lẽ Dực Đức khâm phục Vân Trường lắm, vì với tính cách của Phi, khó mà làm được như Vân Trường. Hồi 28 kết thúc thật xúc động với cảnh đoàn tụ của ba anh em, lại thêm Tử Long, Quan Bình, Chu Thương…

Đúng như lời Thủy Kính nhận xét “Quan, Trương, Triệu là những hổ tướng sức địch muôn người, nhưng cần một vị thượng tướng biết sử dụng họ” (hồi thứ 35), tài năng của Dực Đức chỉ phất lên khi Ngọa Long Gia Cát xuất hiện. Lần thứ ba khi đi mời Gia Cát, Dực Đức nổi nóng khiến ta phì cười “Tên hủ nho này thật hỗn, để em cho một mồi lửa châm nhà hắn, xem hắn có ra đón không?” (Hồi thứ 38). Quả thật lúc đó Phi chỉ lo cho đại nghiệp của anh mình, nên thấy Ngọa Long mới chỉ có 27 tuổi, không tin gì lắm. Phi chỉ thật sự tin vào Ngọa Long sau trận hỏa thiêu đồi Bác Vọng. Từ lúc ấy trở đi, Dực Đức nhất nhất một lòng tin theo Ngọa Long điều khiển. Dưới sự chỉ huy của Khổng Minh, tài năng của Trương Phi được phát huy thật sự. Ở trận Đương Dương Trường Bản, nếu như Triệu Tử Long nổi danh một mình một ngựa bảo vệ ấu chúa, thì Dực Đức cũng không kém Tử Long chút nào. Tiếng hét của Trương Phi “Ta là Trương Dực Đức ở đất Yên đây, ai dám cùng ta quyết một trận tử chiến nào” (hồi 42) làm cho Tào Tháo với trăm vạn quân khiếp vía, không dám vượt qua cầu Trường Bản để đánh với một mình Trương Phi. Tiếng Phi to như tiếng sấm, quân Tào nghe thấy run cầm cập. Và tiếng hét thứ 4 “Đánh không đánh, lui cũng không lui là nghĩa làm sao?” khiến cho “Phi quát chưa dứt tiếng, Hạ Hầu Kiệt ở bên cạnh Tào Tháo khiếp sợ quá, đứt ruột và gan, ngã nhào xuống ngựa.“, và trăm vạn đại quân Tào Tháo kinh khiếp tháo chạy, giày xéo lên nhau mà chết như La Quán Trung nhận xét rằng “Thật là: ứa con nít miệng còn hơi sữa chịu làm sao được tiếng sấm sét; kẻ tiều phu ốm yếu sao chịu nổi tiếng gầm của hổ báo? ” (hồi thứ 42). Và từ khi còn bé, tôi đã thuộc mãi đoạn thơ của hồi này, vì thích Trương Dực Đức quá:

Trường Bản cầu này sát khí sinh,

Ngang mâu, chững ngựa, mắt long lanh.

Bên tai một tiếng vang như sấm,

Khiếp vía quân Tào vội rút nhanh.

Thực ra không hẳn Trương Phi dũng cảm như một kẻ dũng phu đâu. Phi làm cho Tào Tháo khiếp sợ còn nhờ mưu trí, sai quân lính buộc cành liễu vào đuôi ngựa chạy tung tăng bên đồi cây làm bụi mù mịt, khiến cho Tào Tháo tưởng là phục binh Gia Cát (sau mấy trận bị lửa thiêu, quân Tào đứa nào chẳng sợ phục binh Gia Cát). Ai còn nói Trương Dực Đức hữu dũng vô mưu nữa nào?

Quả thật, về mưu trí, Trương Dực Đức có phần còn hơn nhị ca của mình là Vân Trường. Một mình dẫn quân vào Xuyên, dùng mưu bắt sống Nghiêm Nhan, rồi lại vì nghĩa tha Nghiêm Nhan khiến cho Nghiêm Nhan khâm phục mà theo hàng thì một tướng quân vũ phu không thể làm nổi. Dẫn quân đánh Ngõa Khẩu ải, dùng mưu đánh Trương Cáp chạy dài, đoạn này là đỉnh cao về mưu đánh trận của Dực Đức. Say mà như tỉnh, tỉnh mà như say, giả say dụ Trương Cáp vào bẫy, đánh tan 3 đội quân của Trương Cáp, rồi tương kế tựu kế cùng Ngụy Diên dồn quân Trương Cáp vào hang đánh quân Trương Cáp tan nát đã lột tả một Trương Phi khác hẳn với Trương Phi vũ dũng ham uống rượu làm mất thành Từ Châu ngày nào. Hồi thứ 70, Trương Phi đoạt Ngõa Khẩu ải, đánh bại Hứa Chử là đoạn tả một Trương Dực Đức trưởng thành, dày dạn về trận mạc, khôn khéo, mưu trí và cũng thật dũng cảm. Có thể nói chính Gia Cát đã đào tạo làm cho Dực Đức trở nên dày dạn hơn, mưu trí và trưởng thành hơn, tôi nghĩ vậy. Quả thật, Trương Phi lòng dạ ngay thẳng, lại không phân biệt đẳng cấp, không như người anh mình khinh thường “lính quèn” Hoàng Trung trong Ngũ hổ đại tướng, sẵn sàng cúi đầu khâm phục trước một Nghiêm Nhan anh hùng trung nghĩa để khiến cho Nghiêm Nhan khâm phục và đầu hàng. Ôi, Dực Đức hơn Vân Trường ở điểm này nhiều lắm!

Uống rượu như nước của Trương Phi cũng là một cái hay khi ông dùng mưu uống rượu đánh thắng Trương Cáp (chỉ có Khổng Minh hiểu Dực Đức ở trận đó còn đem thêm rượu ra thưởng Dực Đức), nhưng rượu cũng là một sai lầm của Dực Đức. Sai lầm cuối cùng không thể sửa sai của Dực Đức là quá đau khổ khi người anh Vân Trường hi sinh, uống rượu say triền miên, đánh đập hành hạ hai tên Phạm Cương, Trương Đạt để rồi chúng cùng đường làm liều mà giết chết Trương Phi. Ông chết, hai mắt vẫn mở trừng trừng. Ai cũng biết lẽ thường tình của Dực Đức là ngủ không bao giờ nhắm mắt, nhưng dường như nó báo trước cái số mệnh Dực Đức chết không nhắm mắt, chết vì hận chưa kịp báo thù cho anh, hận vì chưa kịp khôi phục nhà Hán như ước nguyện của ông. Dù sao, cả đời anh hùng như Trương Phi, chết cũng không vô ích. Và Phi không như người anh của mình, cứ kêu trả đầu ta đây, mà lặng lẽ ra đi dù chết không nhắm mắt. Có lẽ cái chết của Trương Phi là cái nút mở cuối cùng khiến Lưu Huyền Đức nóng giận cất quân đánh Đông Ngô và bại trận thê thảm ở Hào Đình, nước Thục mất đi khả năng thống nhất thiên hạ, âu cũng là số trời.

2. Điển Vi, Hứa Chử, hai con hổ dại chốn Tào doanh

Tôi chỉ xin có vài lời nói về hai nhân vật này bởi họ không có nhiều diễn biến tâm lý, chỉ có vài lời nói về sức mạnh của họ mà thôi.

Không có nhiều lời để nói về hai nhân vật này, nhưng cũng là những nhân vật khiến người đọc nhớ mãi. Điển Vi (Dian Wei) khi mới xuất hiện đã làm người đọc kinh hồn bạt vía về sức mạnh “vác đôi thiết kích nặng 80 cân, nhảy lên mình ngựa, múa may nhẹ như bay”. Quả thật Điển Vi xứng đáng là hổ tướng số một của Tào Tháo đúng là một “Ác Lai” của Tào Tháo. Và Điển Vi cũng là điển hình về lòng trung thành xả thân vì chủ. Điển Vi chỉ tồn tại ngắn ngủi một thời gian nhưng lóe sáng như một ngôi sao rồi vụt tắt. Trong trận chiến với Trương Tú ở Uyển Thành, Vi hi sinh thân mình, chắn ở cửa trại cho Tào Tháo chạy thoát, đánh với đám quân của Trương Tú “không còn vũ khí trong tay, Vi hai tay túm lấy hai người lính làm vũ khí, quăng quật một hồi giết hàng trăm người khiến quân sĩ khiếp sợ không ai dám đến gần rồi bị tên bắn và một ngọn giáo đâm trúng lưng. Vi kêu to một tiếng, máu chảy đầy mình rồi chết. Hắn chết hàng giờ rồi mà vẫn không có ai dám chạy qua xác hắn… “. Quả thật, Điển Vi quả khiến người ta khâm phục. Tào Tháo quý Điển Vi lắm, cúng tế Điển Vi rất hậu và khóc rằng “Ta mất con trưởng, mất cháu yêu, nhưng không thương tiếc bằng mất Điển Vi“. Thật đáng khâm phục lắm thay!

Photobucket - Video and Image Hosting

Hứa Chử cũng làm người ta khiếp sợ khi mới xuất hiện “túm đuôi trâu kéo giật lùi bốn trăm bước khiến cho quân giặc khiếp sợ mà bỏ chạy“. Hứa cũng theo Tào Tháo từ buổi đâu, lập đại công luôn bằng sức khỏe kinh người ấy. Trận chiến kinh thiên động địa của Hứa Chử với Mã Siêu khiến người ta gọi Hứa Chử với cái tên “Hổ dại”: “Ta là Hứa Chử đây! Mắt Hứa Chử nảy hào quang, oai phong lẫm liệt, Mã Siêu khiếp sợ phải tạm lui quân“. Và trận đấu giữa Mã Mạnh Khởi và Hứa Chử đã làm tên tuổi của Chử vốn vang dội nay càng lẫy lừng hơn. “Hứa Chử cởi trần đánh Mã Siêu” đó là tiêu đề tác giả dùng để đặt tên hồi thứ 59. Trong suốt cuộc đời, Hứa Chử luôn là tiên phong và cận vệ số một. Kết thúc của Hứa Chử là thất bại trong trận đấu với Trương Phi ở xứ Bao Châu khi Chử say rượu tải lương “Trăng lên đi tải lương càng thú, có sao đâu, xá gì một Trương Phi” (hồi thứ 72) và kết quả của sự ngạo mạn ấy là một mâu đâm trúng vai, Hứa Chử oai phong thất bại trước một Trương Phi kiêu dũng nhưng không hề hoang dại chút nào. Thật may Chử giữ được tính mạng chạy về. Nhưng từ đó về sau, không còn cái tên nhân vật này nữa trên chiến trường Tam Quốc, thật đáng tiếc thay!

Photobucket - Video and Image Hosting

Những nhân vật hay nhất trong Tam Quốc Diễn nghĩa (Phần 2)

Triệu Tử Long: Hổ oai tướng quân, toàn thân đều là đảm

Trương Liêu: Bến Tiêu Diêu Trương Liêu khét tiếng

Trong phần này, tôi sẽ nói về hai nhân vật (có thể coi là phụ) trong Tam Quốc, một người là hổ tướng trong Ngũ hổ đại tướng của Tây Thục với cái tên Triệu Vân – được rất nhiều người hâm mộ, một người là đại tướng dưới quyền Tào Tháo – Trương Liêu, được rất nhiều trẻ con Đông Ngô sợ đến mức không dám khóc đêm sau trận chiến bến Tiêu Diêu. Dù đây chỉ là hai nhân vật phụ, nhưng tôi cũng đánh giá họ rất cao ở lòng trung thành, sự sáng suốt trong trận mạc và rất chính trực.

1. Hổ oai tướng quân Triệu Vân ( )

Triệu Vân (趙雲) (không rõ năm sinh, mất 229), tự là Tử Long (子龍) người vùng Thường Sơn, là một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên. Ông được Lưu Huyền Đức gọi là Hổ oai Tướng quân và đứng thứ ba trong Ngũ Hổ Tướng của nhà Thục, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu. Năm 168 sau công nguyên, Triệu Vân được sinh ra tại thành Chân Định thuộc vùng Thường Sơn (bây giờ tỉnh Hà Bắc, phía bắc Trung Quốc). Ông cao khoảng khoảng 1m8, giỏi võ nghệ và có tài thao lược. Ông theo về với Công Tôn Toản, 1 tướng quân cát cứ trong vùng vào khoảng cuối năm 191 hoặc đầu năm 192 sau công nguyên , với danh nghĩa thủ lĩnh 1 đội quân tình nguyện nhỏ. Trong năm 192, Triệu Vân được xếp dưới quyền trực thuộc của Lưu Bị , người mà khi ấy chỉ là bộ tướng của Công Tôn Toản , giữ chức Phiêu kỵ tướng quân. Lưu Bị có vài nghìn kỵ binh, và Triệu Vân được điều đến trong hàng ngũ này. Ngay sau đó Triệu Vân từ bỏ Lưu Bị và Công Tôn Toản để về quê chịu tang anh trai. Triệu Vân lại theo về với Lưu Bị vào năm 200. Từ đó Triệu Vân quan hệ rất gắn bó với Lưu Bị. Truyện Tam Quốc Chí kể họ cùng ngủ chung 1 giường trong thời gian 2 người ở tại Gia Thành. Trong khoảng thời gian đó, Lưu Bị phái Triệu Vân bí mật tuyển mộ thêm quân để tăng cường cho đội quân trực thuộc của Lưu Bị. Kể từ đây Triệu Vân chính thức bỏ Công Tôn Toản theo phò Lưu Bị. Đó là những dòng sử sách giới thiệu về nhân vật này. Có thể nói rằng Triệu Vân thân thiết với ba anh em Lưu Quan Trương như người em thứ tư vậy.

Sở dĩ tôi bình sớm về nhân vật này, bởi ngay từ khi mới đọc Tam Quốc, tôi đã mê ngay cái hình ảnh một mình một ngựa, phá vây Đương Dương bảo vệ ấu chúa của người anh hùng này. Có thể nói nổi bật nhất của Triệu Tử Long là võ nghệ siêu quần, lòng dũng cảm và hết lòng với tập đoàn họ Lưu.

Photobucket - Video and Image Hosting

Trong Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung mô tả sự Tử Long “mình cao tám thước, mày rậm mắt to, uy phong lẫm liệt” (Hồi thứ 7), lần đầu xuất hiện đã đánh đuổi Văn Xú, cứu Công Tôn Toản, và sau đó lập tức bị vỡ mộng với Công Tôn Toản. Triệu Vân cũng gặp Lưu Bị ngay khi đó, và đã tâm sự muốn theo Lưu khi chia tay vì nhận ra Công Tôn Toản kia vốn chẳng anh hùng gì. Tử Long thật sáng suốt vì ngay khi mà Lưu Bị chỉ là một viên tướng bé xíu, không quan quyền gì đã nhận ra ngay vị chân chúa khoan hồng độ lượng biết thu phục nhân tâm ấy để rồi sau này đi khắp nơi vẫn tìm về với Lưu Bị. Nhận ra điều đó, Tử Long quả thật không phải tầm thường.

Những trận đánh của Tử Long luôn khiến cho người người tấm tắc khen. Ở Nhữ Nam, khi mà Lưu Bị đang bị Cao Lãm vây khốn (xin mở ngoặc Cao Lãm và Trương Cáp là hai mãnh tướng của Viên Thiệu theo về Tào Tháo), thì bỗng đâu có một toán quân đánh thốc vào, tướng đi đầu cưỡi ngựa trắng, múa thương, chỉ có một hiệp đâm chết Cao Lãm, phá vây cứu Lưu Bị, đích thực là Triệu Tử Long.

Tử Long càng trở nên quan trọng hơn khi một người một ngựa, một cây thương, cướp gươm Thanh Công, bảo vệ A Đẩu phá vòng vây của Tào Tháo về với Lưu Bị (Hồi thứ 41):

Máu đỏ chan hòa áo giáp hồng

Đương Dương ai kẻ dám tranh hùng

Xưa nay cứu chúa xông trăm trận

Chỉ có Thường Sơn Triệu Tử Long

Trong suốt cuộc đời làm tướng của mình, có lẽ Tử Long chưa hề bị bại trận, và đến khi 70 tuổi vẫn cùng Khổng Minh ra trận, một mình đánh tan 5 cha con nhà Hàn Đức:

Một người một ngựa một cây thương

Tuổi bảy mươi rồi sức vẫn cường

Bốn tướng một tay khua sạch nhẵn

Anh hùng nào khác trận Đương Dương

(Hồi thứ 92)

Ngoài trận Đương Dương Trường Bản, một trận chiến khác của Tử Long được La Quán Trung mô tả cực đẹp là một mình xông trận cứu Hoàng Trung trong trận chiến ở Hán Trung. Khi đó, Triệu Vân và Hoàng Trung cùng ra trận đánh quân Tào, chiếm Hán Trung. Hoàng Trung đi trước bị Trương Cáp, Từ Hoảng dẫn quân vây kín, đang dần kiệt sức, thì bỗng đâu lại là Triệu Tử Long một người một ngựa một cây thương xông thẳng vào vòng vây cứu Hoàng Hán Thăng “ngọn thương của Triệu Vân lúc hoa lên, hụp xuống như tuyết tỏa hoa bay, ào ào như chỗ không người khiến Từ Hoảng, Trương Cáp rụng rời hết vía không dám chiến đấu, đi đến đâu quân Tào giạt ra đến đó..” (hồi thứ 71). Có lẽ những trận chiến tuyệt vời của Tử Long khiến tôi nhớ rất rõ cả những câu thơ ca tụng về ông. Bạn tôi khi thấy tôi gọi Hứa Chử là hổ dại thì hỏi “Thế Tử Long gọi là gì? Cây thương vàng à?“. Đúng thật, nếu đem vũ khí ra làm tiêu biểu thì Vân Trường với thanh long đao, Dực Đức với bát xà mâu, Hoàng Hán Thăng với cây đại đao và cây cung thì Triệu Tử Long luôn cầm thương, cưỡi ngựa trắng, lưng đeo gươm Thanh Công. Hồi bé tôi từng so sánh nếu mà Hoàng Trung có tài bắn tên bách bộ xuyên dương, bắn xuyên lá liễu thì không biết có giết nổi Tử Long không vì anh chàng này luôn rút gươm Thanh Công gạt tên rơi lả tả trong các trận chiến của mình? Tài thao lược của Tử Long được lưu giữ đến phút cuối cùng, khi mà hầu hết quân tướng của Khổng Minh đều thất bại ở trận Nhai Đình thì Tử Long vẫn an toàn đem quân trở về, không thiệt hại chút nào, thật là tài tình thay.

Cùng với võ nghệ siêu quần, lòng dũng cảm, lòng trung thành của Triệu Vân cũng thật đáng nói. Giữa lúc Lưu Bị quân không lấy một người, thua liểng xiểng, thì kỳ lạ thay vẫn có Tử Long theo về “Tôi đi khắp phương trời tìm minh chủ, chỉ có tướng quân là anh hùng thiên hạ, xin nguyện gan óc lầy đất theo tướng quân…” (hồi thứ 28). Trong lúc loạn lạc ở Đương Dương, vẫn hết lòng bảo vệ ấu chúa, không thay lòng đổi dạ bởi chịu ân của Lưu Hoàng Thúc “Vân dù gan óc lầy đất, cũng không đủ báo được!” (Hồi thứ 42). Về chi tiết Lưu Bị ném con thu bụng Tử Long ở hồi 42, có thơ rằng:

Hổ thiêng vùng vẫy trong quân Tháo,

Rồng nhỏ nằm trong bọc Tử Long

Trung ấy lấy gì yên ủi được,

Ném con thu lấy bụng anh hùng

Người ta cho rằng đó là Lưu Bị giở trò lừa phỉnh, giả ném con để lấy lòng Tử Long, nhưng theo tôi, lúc đó Lưu Bị không hề lừa phỉnh Triệu Vân chút nào. Có lẽ trong tình thế ấy, Lưu Bị đến mạng mình còn không giữ nổi, một mãnh tướng như Tử Long là có một không hai, lại cộng thêm tướng ấy hết lòng trung thành với mình, nếu để mất vị tướng này, Lưu Bị còn tiếc hơn cả con mình (ta nên nhớ anh hùng thời ấy lấy đại nghiệp làm trọng). Và công nhận khi người người đồn Triệu Tử Long vì vây nên bỏ Lưu theo Tào, cả Trương Phi cũng không tin, nhưng Lưu Bị vẫn bảo “Tử Long theo ta đã lâu, quyết không thể nào phản ta được” (Hồi thứ 41). Quả thật, mối quan hệ giữa Lưu Bị và Tử Long còn cao hơn cả mối quan hệ quân thần thông thường. Và rồi sau này, Tử Long ở Kinh Châu, lại một mình một ngựa, nhảy thuyền Đông Ngô giành lại A Đẩu đem về cho Lưu Bị, khi ấy Vân nói với Tôn Phu nhân “Chúa công tôi chinh chiến nửa đời người mới có A Đẩu, tôi phải xả thân giữa trăm vạn quân mới bảo vệ được ấu chúa, người về Đông Ngô cớ sao lại muốn đem cả tiểu chủ về?” và khi thả cho phu nhân về Đông Ngô, vẫn cùng Dực Đức nói rằng “Xin phu nhân cứ đi, nếu còn nghĩ tới anh tôi thì nên sớm trở về” (xem hồi thứ 61).

Trong khi đánh chiếm Quế Dương, hàng tướng Triệu Phạm giả hàng, đem chị dâu nhan sắc tuyệt trần của mình dâng cho Vân nhằm lấy lòng, Vân từ chối “Ta với ngươi đã kết nghĩa anh em, chị dâu ngươi cũng như chị dâu ta, sao ngươi làm vậy?” (xem hồi 52). Quả thật, nhờ tỉnh táo mà Tử Long đã không bị thất bại, lại còn dễ dàng chiếm Quế Dương. Khi Khổng Minh hỏi nguyên nhân từ chối, Tử Long trả lời rằng “Tôi với hắn kết nghĩa, chị dâu hắn cũng như chị dâu tôi, lấy là bất nghĩa, hơn nữa chúa công vừa lấy được Kinh Sở, còn chưa yên chỗ, Vân tôi đâu dám vì một người đàn bà mà quên việc lớn…” và quả thật Tử Long thật đúng như lời Khổng Minh và Lưu Bị tán thưởng “Tử Long thật là đấng trượng phu” (hồi thứ 51). Ở đây, tôi chỉ hơi phê bình Tử Long sao mà không thương hoa tiếc ngọc, một cô đẹp thế mà nỡ từ chối sao? Đúng là phí của giời!

Có lẽ ngoài lòng trung thành, Tử Long hơn hẳn Vân Trường về việc không so đo đòi hỏi, không lấy địa vị cao làm đầu. Chính Triệu Vân đã dám đứng ra can gián Lưu Bị tiến đánh Đông Ngô để trả thù bằng những lý do sáng suốt. Tử Long cũng rất hiểu chính sách “Bắc cự Tào Tháo, đông hòa Tôn Quyền” của Khổng Minh là sách lược tối quan trọng để củng cố thế lực. Khi quân đoàn Khổng Minh thất bại ở Nhai Đình trở về, chỉ có một mình Tử Long lập được công, Khổng Minh sau khi tự giáng mình 3 cấp, lại phong thưởng cho Tử Long, ông khẳng khái từ chối “Ba quân đều không lập được công, mà tôi lại được ban thưởng, hóa ra Thừa tướng thưởng phạt không minh… vậy xin đem những vàng lụa cất vào kho để ban thưởng cho tướng sĩ bỏ mình vì nước“. Và Khổng Minh phải than rằng “Trước vẫn được tiên đế khen bụng dạ Tử Long, nay quả thực đúng như vậy!” (hồi thứ 96). Có lẽ trong các nhân vật thuộc hàng “cấp dưới” trong Tam Quốc, Tử Long nổi bật ra khỏi khuôn khổ một vị tướng tầm thường: võ nghệ siêu quần, trí dũng toàn tài, hết mực trung thành và cũng cực kỳ sáng suốt.

Năm 229, Triệu Vân chết ở Hán Trung, quân sĩ nước Thục vô cùng nuối tiếc. Ông được Lưu Thiện truy phong làm Thuận Bình hầu năm 261 sau công nguyên. Được biết đến như một chiến binh vĩ đại, Triệu Vân hội tụ đủ các bản chất của những anh hùng trong thời đại ông. Mặc dù Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung chỉ đặc biệt miêu tả Triệu Vân võ công cao cường, thực ra ông còn đáng được ngưỡng mộ bởi tài thao lược khôn khéo, lòng trung thành tận tụy và tính cách thẳng thắn, sự dũng cảm phi thường. La Quán Trung đã dùng những vần thơ để ca tụng Tử Long:

Thường Sơn một hổ tướng

Chí dũng sánh Quan Trương

Công thành sông Hán Thủy

Tiếng nổi trận Đương Dương

Đòi phen phò ấu chúa

Một bụng báo tiền vương

Sử sách ghi trung liệt

Ngàn thu tỏa khói sương.

Đúng vậy, ngàn thu tỏa khói sương. Ngày nay ở Thành Đô Tứ Xuyên vẫn còn đền thờ Triệu Tử Long, danh tướng mà đời đời ca tụng.

2. Trương Liêu – khét tiếng nơi bến Tiêu Diêu

Lần đầu tiên người ta chú ý đến Trương Liêu ( ), là khi ông chửi Lã Bố hèn nhát cầu xin Tào Tháo tha chết “Đồ hèn Lã Bố kia, chết thì chết, sợ gì!” (hồi thứ 20). Và Vân Trường đã nhận ra con người trung nghĩa ấy, xin Tháo tha chết cho, và từ ấy, Trương Liêu trở thành một vị tướng trung thành và hết lòng với Tào Tháo.

Photobucket - Video and Image Hosting

Trương Liêu tên chữ là Văn Viễn, thưở ban đầu theo Lã Bố từng đánh Tào Tháo, suýt đốt chết Tào Tháo ở thành Bộc Dương, đánh Tào Tháo chạy doe kèn. Tất nhiên Trương Liêu không thể so sánh với Tử Long toàn tài trí dũng nhưng sự hết lòng tận tụy của Trương Liêu cũng khiến tôi muốn nói sớm về nhân vật này. Dưới ngòi bút của La Quán Trung, Trương Liêu không được mô tả tuyệt vời như Tử Long, cũng không oai hùng hoang dại như Hứa Chử, có lẽ ông là một vị tướng thầm lặng bên Tào Tháo, cũng như Tử Long hết lòng hết dạ vì chủ mình.

Trương Liêu là người đã giúp Tào Tháo thuyết phục Vân Trường về với Tào Tháo. Trương Liêu đã gặp Quan Vũ đang bị vây, muốn liều chết để chọn tình với Huyền Đức:

“- Vì cảm nghĩ ngày trước anh cứu em nên em đến đây để cứu anh...

– Em biết anh võ lực có thừa, song hiện nay thế binh của anh đã tan vỡ, nếu liều chết thật là có tội.

Anh thử nghĩ xem, Hoàng thúc hiện nay thất lạc, nhưng chí cả chưa đoạt, thế nào cũng cần người nghĩa dũng, nếu sau này Hoàng thúc cần đến mà không có anh tức là anh có tội thứ nhất. Hoàng thúc đã phó thác gia quyến cho anh, nay anh liều chết để mất chỗ nương tựa, không có ai bảo vệ, ấy là tội thứ hai. Anh là một kẻ võ nghệ siêu quần há lại không khuôn phò nhà Hán để danh muôn thuở lại liều thác như thế phỏng có ích gì, đó là tội thứ ba vậy.

Những lời khuyên chí tình ấy đã tạo ra câu truyền Quan Vũ – Tào Tháo nổi tiếng sau này, và ở Hứa Đô, Văn Viễn đã trở thành một người bạn tâm giao của Vân Trường. Sau này cũng chính Văn Viễn đã đuổi theo ngăn cản binh tướng, để cho Vân Trường tự do đi về với Lưu Bị (tất nhiên là theo lời Tào Tháo). Ngoài điểm sáng đó, có lẽ tôi không mô tả được hết những công của Văn Viễn cho tập đoàn Tào Tháo.

Ở cương vị tướng, có lẽ Trương Liêu khét tiếng nhất là trận Tiêu Diêu khi Tôn Quyền đem quân đánh Hợp Phì. Trương Liêu cùng Lý Điển, Nhạc Tiến trấn thủ Hợp Phì quân chỉ bằng một phần nhỏ đại quân Tôn Quyền. Khi đó, Trương Liêu có bất hòa với Lý Điển, nhưng vì đại cuộc đã dẹp bất hòa sang một bên “Các ông cứ nhục như vậy, tôi xin ra thề một trận tử chiến với giặc!“, chia quân mai phục nơi bến Tiêu Diêu, khi Tôn Quyền đi qua, lập tức chặt đứt cầu Tiểu Sư, chia cắt đoàn quân và mai phục đổ ra đánh giết. Trận này đánh tan đại quân Tôn Quyền, lấy lại sĩ khí, còn làm quân Đông Ngô khiếp sợ oai danh Trương Liêu đến mức mà “trẻ con Đông Ngô không dám khóc đêm vì sợ Trương Liêu” (tôi gọi đùa Trương Liêu là ông tướng dọa trẻ con) và cái câu đặt tên cho hồi thứ 67 là “Bến Tiêu Diêu Trương Liêu khét tiếng“.

Còn nữa…

Những nhân vật hay nhất trong Tam Quốc Diễn nghĩa (Phần 1)

Những nhân vật hay nhất trong Tam Quốc Diễn nghĩa (Phần 1)

Nhân chuyện bàn về Chu Du và Gia Cát, tự nhiên mình nảy ra hứng thú về Tam Quốc, chẳng là đã lâu rồi không được đọc bộ tiểu thuyết này, và cũng đang sẵn thú vui bình loạn. Sau đây sẽ là loạt bài viết giới thiệu về một số nhân vật hay nhất trong Tam Quốc, không chỉ là Tam Tuyệt (Gia Cát Lượng, Tào Tháo, Quan Vân Trường) mà còn nhiều nhân vật khác, kể cả những vị tướng bình thường nhất. Bình luận này sẽ chia làm nhiều bài khác nhau dần dần post lên, hy vọng không làm mọi người thất vọng.

Tam Quốc Diễn nghĩa là bộ tiểu thuyết lịch sử đầu tiên của Trung Hoa, viết theo dạng chương hồi. Tác giả của nó là La Quán Trung, sống ở cuối đời Nguyên, đầu đời Minh. Đây là bộ truyện đồ sộ nhất, mô tả thời kỳ từ cuối thế kỷ thứ 2 đến cuối thế kỷ thứ 3, thời kỳ tàn lụi của nhà Hán ở Trung Hoa và kết thúc là sự thống nhất bởi nhà Tấn (190 – 280). Tam Quốc được coi là bộ sử thi với bảy phần thực, ba phần hư, và có kết cấu cực kỳ chặt chẽ, và cực kỳ logic. Trên thực tế, huyền thoại về các nhân vật thời kỳ Tam Quốc đã được lưu truyền từ thời nhà Tùy (581-618) và thịnh hành ở Trung Quốc thời nhà Đường (618-907) trở đi. Tam Quốc có số lượng nhân vật cực kỳ lớn và phong phú, và mỗi nhân vật đều có những cách mô tả rất lý thú, nhưng lại rất đơn giản, không rườm rà. Cũng có thuyết cho rằng La Quán Trung còn là đồng tác giả của Thủy Hử với Thi Nại Am, nhưng quan điểm của tôi là không phải vậy bởi phong cách Thủy Hử chẳng giống với những gì La Quán Trung thể hiện trong Tam Quốc.

1. Tuyệt gian Tào Tháo ( )

Người đời đều biết đến Tào Tháo là một đại gian hùng, với câu nói nổi tiếng “Ta thà phụ người, chứ không để người phụ ta“. Nói đùa một chút, nếu ta vui tính một chút, có thể coi Tào Tháo nói câu này rất xúc động, lại rất đáng khâm phục nữa “Ta thà mang tiếng là ta phụ người, chứ không để người mang tiếng là đã phụ ta“.ImageImage

Photobucket - Video and Image Hosting

Xét một cách công bằng, Tào Tháo vừa là anh hùng, cũng vừa là một đại gian hùng. Theo lịch sử, công và tội của Tào Tháo lớn ngang nhau. Tào Tháo có công chấm dứt cục diện loạn lạc cuối thời Đông Hán, ổn định lại cuộc sống miền Bắc Trung Hoa, nhưng tội cũng rất lớn là thẳng tay tàn sát những người trái với quan điểm mình.

Tào Tháo, vốn họ gốc là Hạ Hầu, vì bố là con nuôi hoạn quan họ Tào nên mang họ Tào. Tháo có tên chữ là A Man, hay Mạnh Đức. Khuôn mặt của Tào Tháo được mô tả “mắt nhỏ, râu dài..”, rất đặc trưng của một gian hùng. Tính cách điển hình của Tháo là đa nghi (người đời vẫn gọi là đa nghi Tào Tháo). Bản thân Tào Tháo vốn là người có chí lớn, văn võ toàn tài và có tài thao lược. Có thể nói Tào Tháo là một trong những nhà quân sự kiệt xuất nhất thời Tam Quốc. Trận chiến điển hình của Tào Tháo là trận Quan Độ, với số lượng quân ít hơn, đã đánh tan tập đoàn họ Viên, tạo nên thế lực hùng hậu của đội quân Tào Tháo. Một mình Tào Tháo diệt Lã Bố, dẹp Viên Thiệu, đuổi Lưu Bị, chiếm Kinh Châu, đánh Trương Lỗ, phá tan Mã Siêu-Hàn Toại …, có thể nói Tào Tháo là nỗi khiếp đảm của bao người. Nhưng bên cạnh những nỗi khiếp đảm ấy, ta vẫn thấy một Tào Tháo rất con người. Ít ai hiểu được tài năng và cái đáng yêu của Sái Văn Cơ (con gái nhà sử học Sái Ung, tác giả cuốn Hậu Hán Thư) khi nghe khúc nhạc đau xót ở xứ rợ Hồ do nàng sáng tác, để rồi chuộc nàng về, là một người bạn của nàng. Cũng mấy ai giữa lúc trận chiến Xích Bích sắp nổ ra, uống rượu say rồi cao hứng ngâm thơ (dù sau đó thua tan nát).

Giữa cái chốn thị phi của triều đình, anh em nhà Viên Thiệu, Viên Thuật chỉ khinh thường coi Quan Vân Trường là tay mã cung, thì Tào Tháo lại nhận ra người anh hùng trung nghĩa ấy, để rồi hết lòng kính trọng, dùng đủ mọi cách để người anh hùng ấy làm bạn với mình. Dù Tào Tháo có thất tín với ai, nhưng với Vân Trường, Tháo luôn giữ chữ tín (xem phần Quá ngũ quan, trảm lục tướng, Hồi thứ 27 sẽ thấy Mạnh Đức giữ chữ tín với Vân Trường thế nào). Tình bạn của Mạnh Đức và Vân Trường vẫn là điều để người đời nhắc đến, nào là 3 ngày một tiệc nhỏ, 5 ngày tiệc lớn, tặng túi bọc râu, tặng ngựa xích thố..

Tào Tháo là một vị tướng anh hùng trên chiến trường, nhưng cũng có lúc nhát gan đến mức phải phì cười: cởi áo, cắt râu là điển tích đáng lăn ra cười của Tào Tháo ở trận Đồng Quan khi đánh Mã Siêu. Trương Tùng, mưu sĩ của Lưu Chương xứ Ích Châu đã châm biếm Mạnh Đức rằng “Thừa tướng oai hùng thiên hạ đều biết cả, nào là lửa cháy thành Bộc Dương (thua Lã Bố), đuổi Trương Tú ở Uyển Thành (bị Trương Tú đuổi đánh gần chết, mất cả con trai và cháu họ vì gái), cởi áo cắt râu, cướp thuyền tránh tên ở Đồng Quan (thua Mã Siêu)…”.

Giữa những lúc nguy cấp nhất, ta vẫn thấy Tào Tháo cười to. Đó là trận Xích Bích, 83 vạn quân của Tháo bị đốt chết mười phần còn chưa đầy một, 3 lần cười chê Chu Du, Gia Cát Lượng kém mưu không biết bày phục ở Ô Lâm, Hoa Dung… thì 3 lần đều bị phục bởi Tử Long, Dực Đức và Vân Trường do Khổng Minh bày sẵn. Thực ra đâu phải Tháo chê bọn họ vô mưu, Tháo cười lúc đó để khích động lòng tướng sĩ mà thôi, chứ qua trận chiến đó, chắc chắc Tháo hiểu địch thủ của mình không kém mưu chút nào. Cái tín nghĩa của Tháo đối với Vân Trường đã cứu ông thoát chết ở Hoa Dung tử lộ (chết là cái chắc nếu đó là Tử Long hay Dực Đức). Và khi thoát nạn rồi, Tháo mới lăn ra khóc. Lúc đó Tháo không khóc vì sợ hãi nữa rồi, mà khóc vì tiếc, tiếc là không được một mưu sĩ nào ra hồn lúc đó. Cái khóc của Tháo lúc đó lại là khích động tướng sĩ của mình biết xấu hổ để tránh cái thất bại sau đó.

Việc Tháo dùng người cũng là một điều đáng bàn. Có thể nói Tháo chẳng tin một ai, ai cũng nghi ngờ, nhưng lạ một điều Tháo dùng được toàn các vị mãnh tướng hiếm có trong đời: nào là siêu khỏe Điển Vi, hổ dại Hứa Chử, tướng dọa trẻ con Trương Liêu (tôi gọi vậy vì nhớ trận Tiêu Diêu, Trương Liêu đánh tan quân Đông Ngô làm cho quân Đông Ngô sợ Trương Liêu đến mức trẻ con không dám khóc đêm khi đem Trương Liêu ra dọa) Trương Cáp. Giữa lúc trăm người nghi ngờ Bàng Đức (vì có chủ cũ là Mã Siêu làm tướng Tây Thục, anh cũng làm quan Tây Thục) thì Tháo lại tin tưởng giao cho Bàng Đức làm tướng tiên phong đánh Quan Vũ cũng là chuyện lạ. Giữa trận chiến Đương Dương Trường Bản, nhìn một Triệu Tử Long anh dũng giết chết 54 tướng, một mình phò ấu chúa vượt vòng vây, lập tức Tháo yêu mến ngay, và ra lệnh cấm bắn lén, phải bắt sống Tử Long để sử dụng (tiếc cho Tháo là không thành). Có thể nói Tháo rất biết nhìn người, nhìn đúng nhân tài để sử dụng. Có lẽ mưu sĩ Tháo tâm đắc nhất là Quách Gia (Quách Phụng Hiếu) nhưng lại mất sớm ở xứ Liêu Đông khi đánh Viên Thượng, sau Quách Gia, Tháo còn ít các mưu sĩ đánh kể, chỉ nổi lên sau này là Tư Mã Ý (sẽ có bình luận sau). Một sự tích lưu truyền về Tháo là món “kê cân” trong trận chiến xứ Hán Trung với Lưu Bị, và nhân đó giết Dương Tu cũng là một chuyện lý thú về Tào Tháo.

Tạm vài lời kể lể về TUYỆT GIAN Tào Mạnh Đức như vậy, ai có gì bình luận, xin mời comment nhé!

2. Tuyệt trung – Thánh võ Quan Công

Quan Vũ ( ), tên chữ ban đầu là Trương Sinh, sau đó đổi là Vân Trường là một trong ba tam tuyệt của Tam Quốc, là anh em kết nghĩa với Lưu Hoàng Thúc từ thưở đào viên kết nghĩa, trảm giặc khăn vàng. Hình tượng Quan Công oai phong lẫm liệt với “mặt đỏ râu dài, măt phượng mày ngài, cưỡi ngựa xích thố, tay cầm thanh long đao nặng 82 cân”, hoặc “chong đèn tựa kỷ, ngồi vuốt râu đọc Xuân Thu”… là hình tượng ảnh hưởng đến hầu hết các dân tộc bị ảnh hưởng bởi Trung Hoa. Ta có thể gặp các tượng Quan Công ở khắp Hà Nội, vào đền Ngọc Sơn sẽ thấy thờ Võ Thánh Quan Công… Người Trung Hoa phong Quan Công là Vũ Thánh, hay mệnh là Vũ Khúc Tinh, thờ Quan Vũ với hàng câu đối:

Bộ mặt đỏ giữ tấm lòng son, cưỡi ngựa xích thố suốt đời không quên lòng vua đỏ

Tay cầm thanh long đao uyển nguyệt, đọc sử xanh

(Xin lỗi ai có cuốn Tam Quốc thì làm ơn post hộ câu đối này nhé, tại hạ không nhớ hết, ít chữ mà).

Photobucket - Video and Image Hosting

Là một trong những nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng của ông đã được tiểu thuyết hóa trong Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung và sau này được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng, phim ảnh v.v với những chiến tích và phẩm chất đạo đức được đề cao cũng như được thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian, bắt đầu từ thời kỳ nhà Tùy (581-618). Ông cũng được thờ cúng ở nhiều nơi với tượng mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long đao và/hoặc cưỡi ngựa xích thố, đặc biệt là ở Hồng Kông. Tương truyền thanh long đao của ông nặng 82 cân (khoảng 41 kg ngày nay). Trong khi dân gian xem ông như một biểu tượng của tính hào hiệp, trượng nghĩa thì các nhà sử học cũng phê phán ông về các tính kiêu căng, ngạo mạn.

Từ thưở ban đầu, Vân Trường theo đại ca Huyền Đức và tam đệ Dực Đức lang thang khắp nơi, cùng chí hướng phò giúp nhà Hán, cứu dân cứu nước:

“Huyền Đức cùng Quan, Trương kết nghĩa

Thề cùng nhau đem lại sơn hà

Chỉ thương bốn biển không nhà

Nay Đông mai Bắc lân la cõi trần”

(Thơ kết của Tam Quốc)

Ngay thưở đầu ra trận, cái oai hùng của Quan Vũ đã khiến cho chư hầu khiếp phục, Tào Tháo mến phục ngay từ đó. Trong trận chiến ở Hổ Lao quan với hổ tướng Hoa Hùng của Đổng Trác, các tướng của chư hầu không ai địch nổi, Vân Trường (lúc đó chỉ được coi là tay mã cung của Lưu Bị) xin ra trận. Anh em Viên Thuật thì khinh khỉnh không cho, chỉ có Tào Tháo là nhìn thấy Vân Trường anh hùng, liền đồng ý và mời một chén rượu nóng. Nhưng Vân Trường trợn mắt, vác thanh long đao nhảy lên con ngựa còi (lúc đó chắc chắn là ngựa còi, vì ông này cao to quá ngựa chịu không nổi, khi ấy chưa được tặng ngựa xích thố đâu) xông ra trân chém chết Hoa Hùng, quay về chén rượu Tào Tháo thưởng vẫn còn nóng. Lòng hâm mộ của Tào Tháo với Quan Công bắt đầu từ đó.

Dù bị ép buộc phải đầu hàng Tào Tháo (Tào Tháo lấy hai chị dâu của Vân Trường ra làm sức ép), nhưng Vân Trường vẫn đầu hàng với 3 điều kiện: Thứ nhất, chỉ hàng vua Hán, chứ không hàng Tào; Thứ hai, phải bảo toàn danh tiết cho hai chị, và cung cấp bằng bổng lộc của Hoàng Thúc; Thứ ba, sẽ quay lại chủ cũ khi biết Lưu Hoàng thúc ở đâu. Tào Tháo đồng ý, và uy danh của Vân Trường càng nổi lên từ đó. Một thanh long đao, một ngựa xích thố xông vào trận chém chết danh tướng Nhan Lương (tướng Tào Tháo không ai địch nổi), rồi chém chết Văn Sú, giải vây Bạch Mã thành khiến uy danh Vân Trường nổi như sấm, quân tướng Tào Tháo ai cũng khiếp đảm. Có thể nói, con ngựa xích thố trở nên nồi tiếng hơn khi nó đi cùng với Quan Vũ, sự thực là sau khi Quan Công chết, nó cũng chẳng chịu theo ai, bỏ ăn rồi ốm chết.

Tấm lòng trung chinh sắc son của Vân Trường luôn khiến người ta khâm phục, là điểm chói ngời mà người người ca tụng: Thân tại Tào doanh tâm tại Lưu. Biết Lưu Hoàng thúc còn ở bên Viên Thiệu, Vân Trường bất chấp nguy hiểm, bỏ lại bổng lộc và ân đãi Tào Tháo sau lưng, đưa hai chị qua năm ải, chém sáu tướng, tìm về với anh mình. Trong tim Quan Vũ, luôn có lời thề đào viên, anh em kết nghĩa sống chết có nhau, cùng giúp đỡ nhà Hán. Một hình ảnh cực kỳ giản dị là khi Tào Tháo thấy áo bào cũ của Quan Công đã sờn, liền tặng một bộ cẩm bào quý giá, nhưng Quan Công sau khi mặc cẩm bào vào, liền lấy áo cũ mặc ra ngoài vì đơn giản, áo bào cũ ấy là của Lưu Hoàng thúc tặng. Tháo tặng Quan Công vàng bạc, gái đẹp đều chỉ nhận những lời cảm ơn khách xáo, nhưng khi tặng ngựa xích thố, Quan Công lập tức quỳ xuống cảm tạ bởi vì “Tôi biết con ngựa này ngày đi vạn dặm, có thể ngay lập đến chỗ anh tôi khi biết anh ấy ở đâu nên tôi cảm tạ ngài” (Tháo nghe thấy vừa khâm phục lại vừa tiếc – Hồi thứ 25). Không chỉ vậy, Quan Vũ là người sống có trước sau, sau này ở Hoa Dung tử lộ đã đền ơn nghĩa của Tào Tháo bằng cách tha cho Tào Tháo, trói tay về chịu tội với Gia Cát. Còn nữa, Vân Trường cũng khẳng khái tha Hoàng Trung ở Trường Sa khi đánh nhau Hoàng Trung ngã ngựa, khiến Hoàng Trung cảm phục, và nhờ đó mà Lưu Bị có thêm một hổ tướng, đúng như Trương Liêu nói về Quan Vũ “Vân Trường là người kiêu ngạo, khinh người khỏe nhưng không nỡ hiếp người yếu” (hồi 50).

Photobucket - Video and Image Hosting

Lòng trung nghĩa trước sau như một của Quan Vân Trường khiến người đời khâm phục, và lòng dũng cảm của ông cũng khiến cho nhiều người lè lưỡi. Trong trận chiến Tương Dương với Bàng Đức, Quan Vũ bị tên bắn trúng, độc ngấm vào xương, Hoa Đà phải cắt thịt, cạo xương để chữa bệnh. Quan Vũ đã ngồi cười lớn, chơi cờ với Mã Lương, dơ tay cho Hoa Đà cạo xương mà không chút run sợ. Tất nhiên La Quán Trung đã thần thoại hóa chi tiết này nhưng văn học là vậy mà. Hình ảnh Vân Trường chỉ với Châu Thương vác thanh long đao tới hội với Lỗ Túc giữa hàng vạn quân Đông Ngô, rồi ung dung ra về trong sự bất lực của quan tướng Đông Ngô khiến người ta khâm phục.

Có thể nói nghe đến thần vũ của Quan Vân Trường, người người đều khiếp đảm: nào là chém Hoa Hùng rượu còn nóng; chém Nhan Lương, Văn Sú giữa vạn quân; quá lục quan trảm lục tướng; đơn đao phó hội; vì nghĩa tha Hoàng Trung; tháo nước dìm 7 quân đoàn Vu Cấm, Bàng Đức khiến Tào Tháo khiếp sợ… Nhưng có lẽ tôi lại không thích Quan Vũ bằng Trương Phi ở điểm Quan Vũ quá kiêu ngạo và coi thường địch thủ. Khi được phong đứng đầu Ngũ hổ đại tướng, Quan Vũ đã nhất định không chịu nhận khi thấy Hoàng Trung đứng cùng mình trong đó với lý do “Tử Long theo anh ta đã lâu, cũng như em ta vậy, Mã Siêu là dòng dõi thế gia, còn Hoàng Trung chỉ là một anh lính già, ta đây đường đường một đấng trượng phu, lại ngang hàng với một anh lính già à?” (hồi thứ 73). Ô hay, té ra trong lòng của Quan Công suy nghĩ cũng tầm thường quá, tôi nghĩ xuất thân Quan Vũ cũng chẳng hơn gì Hoàng Trung, mà Hoàng Trung cũng hết lòng trung thành xả thân với Lưu Bị đấy chứ. May mà có lời khuyên của Phí Thi. Lại còn nữa, khi nghe Mã Siêu đánh nhau kinh dị với Dực Đức, khi Mã Siêu về hàng Lưu Bị, Vân Trường ngỏ ý muốn vào Xuyên đấu võ với Mã Siêu, thật may có Khổng Minh biết thư kích đúng điểm kiêu ngạo của Quan Vũ mới ngăn được ông vào Xuyên “Mạnh Khởi hùng kiệt thực, nhưng chẳng qua như Kính Bố, Bành Việt mà thôi. Còn như đọ sức thì có thể đọ với Trương Dực Ðức, chớ làm sao sánh với ông râu dài được được?” (hồi 65). Quan Công đọc thư xong, cười ngất đắc ý và thôi không vào xuyên nữa. Khi Tôn Quyền muốn kết làm thông gia với Quan Vũ để cùng mưu đánh Tào (tôi nghĩ đấy là cơ hội cuối cùng để xóa bỏ bất hòa hai nhà Tôn – Lưu lúc đó) thì Quan Vũ chửi rằng “Con gái ta ví như loài hổ, há lại gả cho loài chó à?” (Hồi 73). Có lẽ chưa có sự nhục mà nào lớn thế với Tôn Quyền. Thất thủ ở Kinh Châu là điểm chốt của cái kiêu ngạo này do coi thường Lục Tốn và Lã Mông là lần cuối cùng Quan Vũ có thể kiêu ngạo trong đời. Cái chết của Quan Vũ là sự tất yếu cho cái tính kiêu ngạo của ông, nó cũng là nguyên nhân quan trọng cho sự thất thủ của nước Thục sau này, thất bại mà khiến cho nguyên khí nước Thục tổn thất nặng nề, dù Gia Cát có cố khôi phục mấy chục năm cũng không nổi. Cho đến chết, hồn Quan Vũ vẫn hiện lên kêu “Trả đầu ta đây” và chỉ có lời khuyên của nhà sư Phổ Tĩnh mới làm linh hồn ông siêu thoát “Xưa nay việc đã qua, trái phải không bàn đến, nếu tướng quân cứ hiện lên đòi trả đầu, thì đầu của Nhan Lương, Văn Sú, 6 tướng ở ngũ quan với trăm ngàn tướng sĩ khác biết đòi ở đâu?” (Hồi 77). Có lẽ lời khuyên này là quãng lặng duy nhất trong Tam Quốc, và giúp cho Quan Vũ thành một ông thánh từ đó, luôn hiển thánh giúp đỡ nhân dân và được phong thành Thánh Quan (Thánh Võ).

Còn nữa…

Phải chăng Chu Du thật sự ganh ghét với Gia Cát?

Hôm qua mình đang ngồi làm việc, tự nhiên một cậu học sinh hỏi là “Anh ơi! Có phải là Chu Du chưa chết hẳn, nằm trong quan tài dụ Gia Cát đến để định ám sát, ai ngờ chú Khổng Minh cao tay hơn, ấn nắp quan tài khiến Chu Du chết hẳn?” Nghe câu hỏi cảm thấy hơi buồn cười, nghĩ công nhận người ta vẽ ra lắm huyền thoại thật, vẽ ra một huyền thoại về Gia Cát Lượng đã là kinh lắm rồi, ai ngờ còn vẽ thêm những điều kinh khiếp thế. Nhân thể đêm nay khó ngủ, viết chút bàn luận một chút về hai con người này vậy, dù sao cũng là những nhân vật mà mình yêu thích nhất trong Tam Quốc, cuốn tiểu thuyết mà mình bắt đầu đọc từ hồi năm tuổi, và đến nay, có lẽ không thể nhớ nổi mình đã đọc được bao nhiêu lần rồi mà vẫn mê mẩn vì nó.

Xin mở đầu bài này bằng bài thơ “Xích Bích hoài cổ” của Đỗ Mục vịnh về bãi sông Xích Bích, nơi diễn ra trận chiến Xích Bích nổi tiếng trong lịch sử, trận chiến đã đưa hai nhân vật Chu Du và Gia Cát Lượng bước vào trận chiến thật sự để tranh đoạt thế “Thiên hạ tam phân”:

Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu, 

Tự tương ma tẩy nhận tiền triều. 

Đông phong bất dữ Chu Lang tiện,

Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều.

Dịch thơ là:

Dưới cát gươm chìm sắt chửa tiêu

Mài rũa lắng nghe việc tiền triều

Gió đông nếu chẳng vì Công Cẩn

Đồng Tước đêm xuân khóa hai Kiều

Photobucket - Video and Image Hosting

 

Có lẽ nhiều người đọc Tam Quốc đều thích thú với Gia Cát Khổng Minh (và tôi cũng vậy), và càng thú vị hơn khi đọc những đoạn đấu trí giữa hai nhân vật này (tất nhiên là Khổng Minh đều giành phần thắng), khi mới đọc Tam Quốc, tôi cũng như bao người khác đều nghĩ một điều rằng “Chu Du thật hẹp hòi, ba lần bảy lượt muốn hại Khổng Minh, rốt cuộc chết tức tưởi”, nhưng khi xét kỹ lại, tôi nghĩ cũng đừng nên quá khắt khe với Công Cẩn.

Mới lần đầu gặp nhau khi Lỗ Túc dẫn Khổng Minh vào tiếp kiến Chu Du, khi ấy, Khổng Minh đang đóng vai trò thuyết khách để thuyết phục Đông Ngô liên minh cùng Lưu Huyền Đức chống Tào, và Khổng Minh đã khiến cho Chu Du nổi khùng và quyết chí đánh Tào qua việc kể cho Công Cẩn nghe về mong muốn của Tào Tháo:

Lúc Lượng này còn ở Long Trung, có nghe Tào Tháo lập một cái đài ở mé sông Chương Hà, gọi là đài Ðồng Tước. Ðài ấy cực kỳ tráng lệ. Tháo sai trang hoàng tô điểm lộng lẫy, rồi tuyển nhiều gái đẹp trong thiên hạ để đưa về đấy. Vả lại, Tào Tháo là đứa háo sắc, nghe nói bên Giang Ðông này có Kiều công nào đó sinh đặng hai người con gái, cô chị là Ðại Kiều, cô em là Tiểu Kiều, cả hai đều có dung nhan chim sa cá lặn với vẻ yểu điệu nguyệt thẹn hoa nhường. Nên Tào Tháo thề rằng: “Ta một là dẹp an bốn biển, lập nên Ðế nghiệp. Hai là lấy được hai nàng Kiều bên Giang Ðông đem về để vào đài Ðồng Tước, dùng vui lúc tuổi già, dầu có thác ta cũng chẳng hờn.” Nay Tào Tháo tuy dẫn binh trăm vạn, lườm lườm như cọp gầm, muốn nuốt Giang Ðông, chứ thật ra chỉ vì hai người con gái ấy mà thôi. Sao Tướng quân chẳng đi tìm Kiều công, bỏ ra ngàn lượng vàng, mua lấy hai người con gái ấy, rồi đem sang sông nạp cho Tào Tháo. Tháo được hai mỹ nữ ấy, ắt hả hê vui sướng mà rút quân lập tức. Ðó là cái kế “Phạm Lãi dâng Tây Thi”, nên làm ngay đi thôi!

Chu Du nghe qua, tái mặt, vặn hỏi:

– Tào Tháo muốn được hai nàng Kiều, vậy có gì làm bằng chứng?

Khổng Minh nói:

– Con trai nhỏ của Tào Tháo là Tào Thực tự là Tử Kiến, có tài hạ bút thành văn. Khi xây xong đài Ðồng Tước, Tào Tháo có sai làm một bài phú gọi là Ðồng Tước đài phú. Trong bài phú ấy, ý hắn muốn làm Thiên tử, lại thề bắt hai nàng Kiều.

(Trích La Quán Trung, Tam Quốc diễn nghĩa, Hồi 44)

Và cái bằng chứng ấy là câu thơ của con Tào Tháo là Tào Thực nói về mong ước bắt hai nàng Kiều về Đài Đồng Tước:

Tìm hai Kiều phương Nam về sống,

Vui cùng nhau giấc mộng hồi xuân.

Thực ra, đây là trò chơi chữ của Khổng Minh để chọc tức Chu Du, hai câu thơ ấy thực ra là:

Bắc hai cầu Ðông, Tây nối lại,

Như cầu vồng sáng chói không gian…

Ta biết rằng hai nàng Kiều ở Giang Nam khi ấy là con Kiều Quốc Lão, là Đại Kiều (vợ Tôn Sách, chủ cũ đã mất của Chu Du) và Tiểu Kiều (vợ Chu Du) là hai người con gái xinh đẹp sắc nước hương trời. Khổng Minh đã dùng mưu ấy đánh vào Chu Du khiến Công Cẩn quyết ý đánh Tào.

Và sau khi thỏa thuận liên minh với Tôn Quyền, Chu Du về nhà nghĩ rằng:

– Gia Cát Lượng biết tận đáy lòng Ngô Hầu, tài trí lại hơn ta, sau này ắt là mối nguy cho Giang Ðông. Chi bằng ta giết quách hắn đi thì hay hơn. (xem hồi 44, Tam Quốc diễn nghĩa)

Nhưng Lỗ Túc là người theo chủ trương hòa hoãn, đã hiến kế để vẹn toàn đôi đường rằng:

– Nay Ðông Ngô có Gia Cát Cẩn là anh của hắn, đang lãnh chức Tham mưu. Vậy phải sai Gia Cát Cẩn đến đó dùng tình cốt nhục mà dụ hắn về giúp cho chúng ta thì hay hơn.

Và Chu Du lập tức tán thành, sai Gia Cát Cẩn (là anh cả của Khổng Minh) đi đến thuyết phục em mình bỏ Lưu theo Tôn. Thật không ngờ ông anh Gia Cát Tử Du, gặp ông em cao tay hơn, chưa kịp thuyết phục thì đã bị ông em làm cho câm họng, ta hãy xem đoạn này trong hồi 44 của Tam quốc:

Gia Cát Cẩn nói rồi liền từ giữ Châu Du, lên ngựa đi thẳng đến quán dịch tìm gặp Khổng Minh.

Khổng Minh hay được tin, rước vào khóc lạy. Anh em vừa hàn huyên mấy câu, Cẩn đã rưng rưng nước mắt, sụt sịt khóc, hỏi rằng:

– Em biết việc Bá Di, Thúc Tề chăng?

Khổng Minh thầm nghĩ:

– Ðây chắc là Chu Du sai anh ta đi dụ ta đây!

Nghĩ rồi liền đáp:

– Thưa anh, Di, Tề là hai người hiền xưa.

Gia Cát Cẩn lại nói:

– Bá Di, Thúc Tề tuy phải chết đói dưới núi Thủ Dương mà anh em không n ỡ lìa nhau. Nay anh em ta cùng ruột cắt ra, cùng chung sữa mẹ, mà mỗi người lại thờ một chúa, cách biệt đôi nơi, sớm tốt không được thấy mặt nhau, sánh với Bá Di, Thúc Tề thì chẳng hổ lắm sao?

Khổng Minh đáp:

– Lời anh nói đó là tình, còn việc em giữ đây là nghĩa. Anh với em đều là tôi của nhà Hán. Nay Lưu Hoàng thúc là con cháu tôn thất, nếu anh bỏ được Ðông Ngô về làm tôi Hoàng thúc, thì trông lên không hổ thẹn là kẻ bề tôi nhà Hán, mà trông lại thì anh em chúng ta sẽ được gần gũi nhau, tình nghĩa vẹn toàn cả hai. Chẳng hay ý anh ra sao?

Gia Cát Cẩn ngao ngán nghĩ thầm:

– Ta đến dụ hắn, té ra ta lại bị hắn dụ!

Đọc đến đây ta lại tán thưởng Gia Cát Khổng Minh có tài ứng đối, không làm mất lòng anh, trái lại không bị rơi vào thế khó xử. Qua đây ta bắt đầu thấy, không phải Chu Du hoàn toàn muốn giết Khổng Minh vì ghen ghét. Ta hãy hiểu thời điểm đó, Trung Hoa phân chia tứ tán, các thế lực khắp nơi nổi dậy. Lưu Bị lúc đó tuy thế yếu, nhưng thực ra không hề yếu bởi có tài thu hút nhân tâm, lại có Quan, Trương, Triệu là các mãnh tướng muôn người không địch nổi, thêm một Khổng Minh tài năng siêu việt, ắt sẽ lên sự nghiệp lớn, tất nhiên sẽ đe dọa đến cơ nghiệp của Đông Ngô. Chu Du muốn trừ Khổng Minh không hẳn vì ghen ghét (nếu ghen ghét đã không cho Gia Cát Cẩn đi chiêu dụ), mà cũng vì chủ mình mà thôi, ai vì chủ lấy mà, hãy thông cảm cho Công Cẩn ở điều đó.

Và rồi, liên tiếp các cuộc đấu trí sau, Công Cẩn luôn thua Khổng Minh, và đã bao lần than rằng:

– Gia Cát Lượng thật là thần cơ diệu toán, ta thật không bằng! (Hồi 46, Gia Cát Lượng nhân sương mù lấy tên của Tào Tháo)

Quả thật Gia Cát Lượng không chỉ hơn Chu Du ở chỗ có tài “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý” mà còn rất hiểu đối thú của mình, đó là điều khiến ông luôn thắng Chu Du trong các cuộc đấu trí giữa hai người:

Sự lo sợ về sự đe dọa của Khổng Minh đối với Chu Du lên đến đỉnh điểm khi Khổng Minh giúp Chu Du cầu gió đông nam (thực ra là tài đoán biết trước thời tiết mà thôi, ai mà cầu được), giúp Công Cẩn thực hiện được kế hỏa công bởi:

Muốn đánh giặc Tào

Phải dùng hỏa công

Muôn việc đủ cả

Chỉ thiếu gió đông

(Hồi 49)

Và Chu Du nghĩ rằng:

“Người này có phép đoạt được trời đất, hơn cả quỷ thần, nếu không trừ khử đi sau này tất nhiên gây hại cho Đông Ngô ta…” (Hồi 49)

Nhưng một lần nữa, Chu Du lại thất bại bởi Khổng Minh đã đoán trước, sai Tử Long đón sẵn, an toàn bỏ Đông Ngô về với Lưu Huyền Đức.

Và sau đó, là liên tiếp những cuộc đấu trí khác, nào là Chu Du bị vây khốn ở Kinh Châu khi định dùng kế “mượn đường giệt Quắc” giả đi đánh Tây Thục để cướp Kinh Châu, rồi định dùng em gái Tôn Quyền để nhử Lưu Bị hòng đánh đổi Kinh Châu nhưng đều bị Khổng Minh tương kế tựu kế phá hỏng, đến nối mà:

“Chu Du kế giỏi yên thiên hạ

Đã mất phu nhân lại thiệt quân” (Hồi 55)

Câu thơ của Khổng Minh sai quân sĩ đọc nhân việc Lưu Bị ung dung cắp cô em gái xinh như mộng của Tôn Quyền về Kinh Châu trong sự căm tức của Chu Du làm cho mâu thuẫn giữa hai người đẩy lên đỉnh điểm, và sau đó là cái chết của Chu Du. Ai cũng nghĩ Chu Du chết một cách tức tưởi, nhưng thực ra ông chết cũng vì hết lòng lo cho Đông Ngô bởi thế lực của Lưu Huyền Đức ngày một mạnh, đang đe dọa vị trí của Đông Ngô. Và lời than vãn cuối cùng của Chu Du đã trở thành nổi tiếng ngàn năm:

“Trời đã sinh ra Du, sao còn sinh ra Lượng”

Nó cũng khiến cho chúng ta vẫn nghĩ rằng Công Cẩn vì ganh ghét với Khổng Minh mà chết. Mong mọi người hãy rộng lượng với Chu Du, ông ta không phải con người như vậy đâu, tôi tin như thế. Chu Du hết lòng lo lắng cho vận mệnh của Đông Ngô đến nối chết lúc còn khá trẻ (ông chết khi chỉ có 36 tuổi), hình như đó cũng là số mệnh của những vị tướng Đông Ngô luôn yểu mệnh: Tôn Sách, Chu Du, Lã Mông, Lục Tốn.. Sinh thờil, Chu Du là một vị tướng văn võ toàn tài, đặc biệt có tài về âm nhạc, chắc chắn tâm hồn cũng rất khoáng đạt. Cái mâu thuẫn với Khổng Minh không xuất phát từ lòng ganh ghét cá nhân, mà là xuất phát từ mưu toan cho đất nước, lo cho vận mệnh của Đông Ngô mà thôi. Và bài văn tế của Khổng Minh trước linh cữu Công Cẩn đã dẹp tan những ý nghĩa về mâu thuẫn hai người trong quần thần Đông Ngô:

Thương ôi Công Cẩn, làm sao sớm khuất,

Ðành lẽ số trời, ai ai cũng xót

Lượng tôi tới đây, kính dâng ly rượu

Anh có linh thiêng xin về chứng giám

Nhớ xưa đi học, chơi với Bá Phù

Nhường cơm sẽ áo, một lòng thương nhau

Nhớ anh còn trẻ, chí cả ngàn trùng

Vẫy vùng một cõi, độc lập Giang Ðông

Quyền cao chức trọng, trấn giử Ba Khâu

Khiếp oai Lưu Biểu, đẹp dạ Ngô Hầu

Diện mạo như ngọc, Tiểu Kiều đẹp đôi

Rể tôi nhà Hán, hỏi được mấy người?

Anh hùng cái thế, chẳng chịu qui Tào

Trời xanh vổ cánh đại bàng bay cao

Phong tư cốt cách, Tưởng Cán ng ngàng

Hết đường thuyết khách, nói cười như không

Thương anh lừng lẩy, văn võ kiêm toàn

Hỏa công một trận, Xích Bích lừng vang

Làm sao sớm khuất, ai hi Chu Lang

Lượng tôi đau xót, huyết lệ hai hàng

Sống đ trung nghĩa, mất được thảnh thơi

Tuổi thọ ba chục, danh lưu muôn đời

Lòng tôi bối rối, vạn mối tơ vò

Tâm nầy lửa đốt, ruột héo gan khô

Giang Ðông tang tóc, ba quân bàng hoàng

Chúa thời tuôn lệ, bạn thời khóc than

Lượng tôi những tính nương tựa vào nhau

Giúp Lưu phò Hán, cùng Ngô phá Tào

Gây thế ỷ dốc, sớm hôm bàn mưu

Lượng tôi kém cỏi, mong trông cậy nhiều

Nào ngờ Công Cẩn !, sớm khuất từ đây

Mênh mang chánh khí, trời thẳm đất dầy

Anh linh chứng dám, rủ thương lòng nầy

Từ nay tri kỷ,biết ngỏ cùng ai ?

Thương ôi, có thiêng, xin về thượng hưởng….

Khổng Minh nghẹn ngào mãi mới đọc hết, đọc xong gục mặt xuống đất khóc lóc như mưa, thảm thương vô cùng, đầu tóc rủ rượi,�làm cho các tướng đang tức giận muốn ăn tươi nuốt sống Khổng Minh cũng phải nói với nhau:

– Người ta cứ nói Công Cẩn với Khổng Minh bất hòa, nhưng nay xem như vậy, thì có lẻ là thiên hạ xét sai.

(Hồi 57)

Và tôi tin rằng, nếu Chu Du và Gia Cát Lượng cùng phục vụ cho một chủ, hai người sẽ là những người bạn tốt của nhau, bởi họ cực kỳ hiểu nhau và đều có lòng vì chủ, vì nước cả. Kết thúc bài này, xin được đọc những câu thơ mà tôi rất thích trong bài Xích Bích hoài cổ của Đỗ Mục:

Dưới cát gươm chìm sắt chửa tiêu

Mài rũa lắng nghe việc tiền triều

Gió đông nếu chẳng vì Công Cẩn

Đồng Tước đêm xuân khóa hai Kiều

Vâng, gió đông nếu không vì Chu Công Cẩn, có lẽ sẽ chẳng có những cuộc đấu trí đầu lý thú giữa hai vị tướng kiệt xuất thời Tam Quốc, hai người bạn kình địch ở hai thế lực: Công Cẩn và Khổng Minh.

Photobucket - Video and Image Hosting