Hồi ký Trường hè Khoa học (Phần 3)

Tôi đã viết hai phần trước cách đây lâu quá nhưng giờ nhân chuyện VSSS đang post các câu chuyện chưa kể, tôi thấy mình nên viết tiếp hồi ký còn dang dở này.

Lại nói tới kỳ VSSS đầu tiên tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQGHN), khi chốt chương trình tôi và Hưng muốn ít nhất hai ngày và đề nghị phía Trường hỗ trợ phòng học cho 2 ngày. Anh Nguyễn Văn Bình, mặc dù rất ủng hộ chúng tôi, lại vẫn e ngại rằng khóa học boring làm học viên ngủ hết thì chán lắm, nên đề nghị nên trong một ngày thôi. Nhưng chúng tôi vẫn tự tin vào kế hoạch và nhất quyết xin hai ngày. Và rồi chị Giang cũng ủng hộ kế hoạch hai ngày, thế là anh Bình cũng yên tâm chốt! Thế là VSSS bắt đầu với hai ngày giảng dạy.

Ảnh này chụp ở VSSS 2019, tôi dùng như một hình ảnh ví dụ (tiếc là ở kỳ đầu tiên chúng tôi không giữ lại bức ảnh nào)

Những người quản lý như anh Bình, chị Giang nhiệt tình ủng hộ, với mong muốn sinh viên và nhất là những cán bộ nghiên cứu trẻ của trường sẽ hưởng lợi từ những khóa học như thế này. Thế nhưng VSSS ban đầu chẳng gây chút thiện cảm nào với những nhà nghiên cứu trẻ của trường. Tôi giới thiệu khóa học tới nhiều anh em cán bộ trẻ. Những câu trả lời chung là: ồ vậy hả anh? OK, em xem nào,.. à, mấy thứ này thì có gì đâu anh,.. Có bạn già dặn hơn chút thì căn vặn tôi: các anh có cần dạy mấy thứ này không, khéo lại nhồi nhét những thứ mặt tối làm khoa học Việt Nam vào sinh viên thì không hay,… Thoáng chút buồn nhưng tôi vẫn được an ủi phần nào vì cũng có không ít các bạn sinh viên đại học của Trường đăng ký tham gia.

Cả ba chúng tôi đều hồi hộp khi đến ngày VSSS ra mắt. Hưng là người chuẩn bị cho việc lên lịch, mời Phạm Thái Sơn và anh Ngô Đức Thành cho các bài giảng, tôi thì vật vã với cậu con trai ốm yếu nên đến trước ngày VSSS khai mào, chẳng mó tay vào việc gì. Sáng ngày 5/8, tôi dậy sớm và đến trường Tự nhiên, Hưng cũng đến sau tôi có vài phút. Hai chúng tôi ngồi ăn sáng ở cổng trường, nơi trước đây tôi vẫn hay lê la trà đá, và khi chuẩn bị vào trường thì Sơn cũng tới. Cả ba nhìn nhau có phần hơi hồi hộp (vì không rõ sẽ ra sao) và khi lên tới phòng học thì nhiều bạn học viên đã tới nơi. Chúng tôi làm quen với nhau và đợi ít phút đến giờ bảo vệ trường mở cửa phòng học. Thật bất ngờ, đúng giờ đăng ký như chúng tôi thông báo tới các học viên trúng tuyển, các học viên có mặt đầy đủ để đăng ký học. Lần đầu tổ chức khiến chúng tôi làm việc khá luộm thuộm, cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện này thì anh Dương lại tỏ ra là người hơn hẳn chúng tôi việc này. Anh Dương đã chuẩn bị sẵn cho mấy người tổ chức chúng tôi thẻ đeo tên (dù thiết kế vôi và khá giản dị những cũng rất đàng hoàng) để học viên nhận ra chúng tôi, và cũng chuẩn bị sẵn một bạn tình nguyện viên (tôi còn nhớ tên là Vân Anh) giúp chúng tôi đăng ký và điểm danh, mọi người nhanh chóng vào phòng học và VSSS chính thức bắt đầu!

VSSS được bắt đầu trong một phòng họp ấm cúng, có vẻ hơi chật chội một chút cho hơn 80 con người ngồi. Nhà trường khá ưu ái cho chúng tôi mượn một phòng họp trên tầng 4 nhà T1. Trường hè khai mạc (hay tạm gọi là “khai giảng” cho oai đi) rất ngắn gọn với một diễn văn ngắn của anh Bình – đại diện nhà trường và vài lời mở đầu của anh Dương, VSSS đi thằng vào vấn đề luôn – lớp học bắt đầu liền. VSSS được mở đầu với bài của anh Dương “Nghiên cứu khoa học và Tự do học thuật” (và bài này sau này luôn là bài mở đầu ở các kỳ VSSS tiếp theo). Thoáng chút rụt rè ban đầu (có lẽ tất cả chúng tôi đều có chút hồi hộp ban đầu), lớp học có vẻ hơi trầm trầm pha chút ngỡ ngàng vì những điều có vẻ như hơi lạ trong bài giảng. Chúng tôi đã cố gắng tạo ra một không khí mới bằng cách chơi “song kiếm hợp bích”. Anh Dương đóng vai trò giảng viên chính, tôi, Hưng và Sơn cùng nhau tung hứng bằng cách dùng chính những trải nghiệm nghiên cứu của bản thân để bổ sung những chỗ trống trong bài giảng của anh Dương, và làm cho lớp học bắt đầu sôi động hơn. Và lối giảng này bắt đầu trở lên hiệu quả bắt đầu với những cánh tay dơ lên kèm với những câu vặn hỏi lại chúng tôi. Chúng tôi lại đi đến một quyết định “ác” hơn nữa, là tạo ra một số quy định trở thành những “điều luật bất thành văn” trong những thảo luận và trao đổi ở VSSS sau này: (1) “Không có ai tên là THẦY trong lớp học này! Chỉ có những người có kinh nghiệm hơn, hoặc đi trước để truyền lại cho người còn chưa biết! Và xưng hô sẽ là anh, chị,..!”, (2) “Mọi điều liên quan tới học thuật được trao đổi trong lớp học sẽ được bảo vệ, không hề sợ bất kỳ một quy chụp nào”. “Hiến pháp bất thành văn” này làm không khí lớp học trở nên vui vẻ và cởi mở hơn, bức tường “thầy – trò” như bị đạp đổ làm cho nhiều học viên mạnh dạn “bật lại” mấy giảng viên – điều mà chúng tôi đang trông đợi. Và cứ như vậy, lớp học đầu tiên của VSSS đã không còn như lớp học truyền thống ở Việt Nam, chẳng có ai chép từng lời của người dạy, cũng chẳng có khép nép “thưa thầy”, mà đầy ắp những “tranh cãi” và trải nghiệm mới. Phải nói thêm rằng, ý nghĩ mình là thầy của những học viên này chưa từng xuất hiện trong đầu chúng tôi. Chúng tôi thuần túy như những người đi trước họ một chút và chia sẻ những gì mình từng trải nghiệm với họ.

Tôi, Sơn, Hưng cùng tiếp theo sau anh Dương hoàn thành bài giảng của mình trong ngày. Ban đầu, chúng tôi đã dự trù trước rằng có thể sẽ nhiều người bỏ dở, nhưng hóa ra chúng tôi đã nhầm to (kể ra cũng nên xin lỗi anh chị em học viên vì những suy nghĩ sai trái ban đầu về các bạn :)). Không một ai bỏ về giữa chừng! Lớp học đầu tiên của buổi sáng thậm chí mọi người “nhập đồng” đến độ quên ăn trưa, và tôi phải lên tiếng tạm dừng khi nhìn đồng hồ đã gần một rưỡi chiều (tôi hiểu là ở Việt Nam mọi người thường đi ăn lúc trước 12h trưa). Chúng tôi phải tạm dừng lại để tất cả đi ăn trưa, và hẹn quay lại lúc 2h, và khi chúng tôi quay lại lúc 2h, tất cả học viên đã quay lại đầy đủ đễ sẵn sàng tiếp tục những “tranh cãi” đầy vui nhộn! Trường ĐHKHTN tiếp đãi chúng tôi không hề tệ chút nào, giải lao giữa buổi đều có trà nước, bánh ngọt ăn nhẹ, rất chuẩn “tea break” của các hội thảo khoa học. Lớp học buổi chiều còn “kinh dị” hơn! Cả lớp như quên mất thời gian, đến mức nhân viên bảo vệ phải gõ cửa giục chúng tôi ra về, lúc đó đã gần 8h tối! Lúc đó tất cả mới thấm mệt, nhưng không ai cảm thấy chút phí hoài với thời gian đã bỏ ra.

Sáng ngày thứ hai, tôi đến lớp sớm hơn chút so với giờ dạy, và đã có rất đông học viên có mặt để chuẩn bị buổi “hành xác”. Hôm nay mọi người đã gần gũi với nhau hơn hôm đầu tiên rất nhiều, và tôi đã được nhiều bạn “quây” hỏi đủ thứ chuyện (và tất nhiên cũng chủ yếu xoay quanh những chủ đề từ hôm trước). Có bạn kể với tôi họ khá bất ngờ về phong cách của mấy “anh thầy” đã dạy họ, rằng chưa từng thấy có kiểu dạy mà thầy chạy quanh lớp, ai thích thì tùy tiện cắt lời, rồi nào là thầy ngồi ngay trên bàn để cãi nhau tay đôi với học trò (vẫn chưa hết kiểu thầy – trò :P), chả giống kiểu học mà họ đã từng trải qua ờ Việt Nam.

(Còn nữa…)

Lái xe và học lái xe ở Anh (phần 2)

Trong phần trước, tôi đã giới thiệu sơ qua về chuyện lái xe ở Anh, cũng như chuyện sở hữu xe, bảo hiểm xe, và các chi phí phát sinh khi “nuôi” một chiếc ô tô ở Anh. Chi phí nuôi xe thực tế cũng không hề rẻ, nhưng có một điều rất rõ ràng là có xe hơi riêng là một điều rất tiện lợi (dù bạn có thể không dùng thường xuyên). Và để lái xe thì điều đầu tiên là bạn cần phải biết lái xe và có bằng lái xe. Bài viết này sẽ giới thiệu về học lái xe và thi lái xe ở Anh.

Phần 2. Học lái xe và lấy bằng lái xe ở Anh

Bằng lái xe (driving licence) ở Anh cũng là một dạng “giấy tờ tùy thân”, hay “chứng minh thư nhân dân”: là một thẻ chip được thiết kế để chống làm giả, trên đó lưu cả thông tin cá nhân của chủ thẻ (trên chip). Địa chỉ nơi ở chủ chủ sở hữu (cùng với ảnh, ngày sinh, loại bằng lái, ngày cấp,..) được in trực tiếp trên bằng lái, nên nó cũng được dùng như một giấy tờ xác định địa chỉ. Một người được phép thi lấy bằng lái xe ở Anh nếu như:

  • Tối thiểu 17 tuổi,
  • Cư trú ở Anh hợp pháp với thời hạn cho phép tối thiểu 180 ngày (6 tháng) : sinh viên quốc tế, lao động quốc tế,.. ở Anh với visa loại cư trú tối thiểu 6 tháng có thể được phép đăng ký thi lấy bằng lái xe (có nghĩa là những người có visa dạng du lịch, thăm thân sẽ không được cấp bằng lái ở Anh);

Bằng lái xe của Anh có thời hạn 10 năm, và được phép dùng để lái xe ở 97 quốc gia và vùng lãnh thổ (mà không cần đổi bằng lái hoặc thi sát hạch), và được coi là bằng lái xe “powerful” nhất thế giới. Vậy thì việc bạn sở hữu một bằng lái xe của Anh chẳng những tiện lợi khi lái xe ở Anh mà còn cực kỳ tiện lợi khi đi nước ngoài. Và phần này sẽ chia sẻ những kinh nghiệm lấy bằng lái xe ở Anh. Chú ý là mọi thông tin chi tiết bạn có thể check trên website của chính phủ Anh.

david-cameron-spoof-drivi-008
Bằng lái xe của Cựu Thủ tướng Anh David Cameron có địa chỉ tại 10 Downing Street, London (nơi cư trú khi ông này còn là thủ tướng). Ảnh từ http://theukister.co.uk/.

Để có bằng lái xe, bạn cần vượt qua 2 kỳ thi sát hạch: i) thi lý thuyết trên máy tính và ii) thi lái thực hành trên phố, và hãy nhớ rằng nước Anh luôn “tự hào” là nơi khó nhất thế giới để có được bằng lái xe ô tô (cũng vì thế mà chiếc bằng lái xe ở Anh rất có giá trị). Báo Guardian của Anh đã thuật lại câu chuyện của một người Mỹ (là một nghiên cứu sinh ở Đại học Cambridge) vừa lấy được bằng lái ở Anh, và có những so sánh thú vị giữa thi lái xe ở Mỹ và Anh. Anh này coi bằng lái xe ở Anh như một bằng “tiến sĩ lái xe”, và khó hơn rất nhiều so với việc có được bằng lái xe ở Mỹ: một kỳ thi lý thuyết cực kỳ khó, phải cẩn thận như thế nào khi lái xe, phải đi chính xác ra sao,…  khi thi lấy bằng ở Anh. Anh ta cũng lý giải một điều dễ hiểu là ở Anh mật độ dân cư cao gấp 8 lần Mỹ, đường phố hẹp hơn,.. đòi hỏi người ta cần phải cẩn trọng hơn rất nhiều so với ở Mỹ nên việc đòi hỏi cao khi cấp bằng lái xe ở Anh là điều dễ hiểu. Và với anh ta, việc lấy được bằng lái Anh giúp anh ta trở nên lái xe cẩn trọng hơn rất nhiều và hoàn toàn đáng tự hào khi cầm chiếc bằng lái Anh.

Chi tiết hơn, dưới đây là những bước cần làm để qua hai kỳ thi trên. Chính phủ Anh cũng hướng dẫn như bước cơ bản  tại đây:

  1. Đăng ký một bằng lái xe tạm thời (provisional driving licence)

Bằng lái xe tạm thời  (provisional driving licence) là chiếc bằng đầu tiên (nó cũng có thể được dùng làm giấy tờ tùy thân – một điều thú vị kể từ 2011, giấy tờ tùy thân kiểu như “thẻ căn cước”, “chứng minh thư nhân dân” ở Anh đã không còn tồn tại) bạn cần có để có đăng ký thi lý thuyết, học lái xe và thi lái xe. Bạn có thể làm việc này hoàn toàn trực tuyến hoặc đăng ký ở bưu điện. Để làm trực tuyến, bạn cần thực hiện trên trang web của chính phủ, trả £34 lệ phí (bằng thẻ thanh toán trực tuyến: VISA, Mastercard,.. – phí tính ở thời điểm năm 3/2018). Sau khi bạn hoàn thành việc này, DVLA (Cục Quản lý Phương tiện và Cấp bằng lái – Driver & Vehicle Licensing Agency) sẽ gửi đến cho bạn một form để yêu cầu xác định thân nhân của bạn, bạn chỉ việc làm đúng những chỉ dẫn trong form (rất đơn giản) và gửi lại form đó cho DVLA, và bạn sẽ nhận lại chiếc bằng lái tạm thời (có in chữ L – Learner, hoặc D nếu bạn Wales) trong vòng 3 tuần. Chiếc bằng này bạn có thể dùng trong vòng 20 năm. (Người ta sẽ thu chiếc bằng tạm thời này để cấp cho bạn bằng lái chính thức khi bạn đỗ kỳ thi sát hạch lái xe).

uk-driving-licence_provisional_front_flag
Một ví dụ về bằng lái xe tạm thời – Provisional Driving License (Ảnh: https://www.ereg-association.eu/)
  1. Học lý thuyết và thi lý thuyết

Bạn phải tự học về lý thuyết cơ bản (luật đường bộ, các quy tắc cơ bản khi tham gia giao thông,..) qua các tài liệu chính thức của Chính phủ Anh:

  • Bộ tài liệu chuẩn về các quy tắc tham gia giao thông đường bộ The Highway Code;
  • Tài liệu học thi được bán rất phổ biến (ví dụ như tại đây);

Thi lý thuyết lái xe tại Anh sẽ gồm 2 phần thi:

  • Thi trắc nghiệm kiến thức cơ bản (về các quy tắc tham gia giao thông, cứu thương,..), bao gồm 50 câu hỏi trắc nghiệm trong vòng 57 phút (làm trên máy tính). Bạn cần trả lời đúng ít nhất 43/50 câu hỏi. Có khoảng đâu đó 950 câu hỏi (dạng multiple choice) trong ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm thi lý thuyết, bạn có thể mua DVD thi lý thuyết (Driving Test Success All Tests) về để học và luyện các bài thi thử.
  • Thi nhận biết rủi ro khi lái xe (hazard perception test): 3 phút sau khi hoàn thành phần trắc nghiệm, bạn sẽ phải ngồi theo dõi 14 video clip mô phỏng việc lái xe trên đường phố, và click chuột vào các tình huống mà bạn cho rằng có thể có rủi ro (hay hiểm họa) cần đề phòng khi lái. Với 14 clip này, điểm tối đa là 75, và bạn cần đạt tối thiểu 44/75 điểm để đạt phần thi này. Phần đông người trượt lý thuyết đều ở phần thi này. Bạn nên thực hành kỹ trước khi thi để hiểu quy tắc (DVD lý thuyết mà tôi đề cập ở trên cũng có nội dung ôn luyện cho phần này).

Để đỗ kỳ thi lý thuyết, bạn cần pass cả hai phần thi nói trên, và khi hoàn thành bài thi, bạn sẽ được biết ngay kết quả, và nhận giấy chứng nhận pass kỳ thi lý thuyết ngay lập tức nếu bạn đỗ. Bạn sẽ dùng giấy này khi thi thực hành.

theory-test-question-screen
Một câu hỏi ví dụ của thi lý thuyết (Ảnh: https://www.learnerdriving.com/)

Lệ phí thi lý thuyết là £23 (tính đến tháng 3/2018), và bạn có thể tự mình đặt thi lý thuyết trên mạng (tùy chọn trung tâm thi tiện nhất cho bạn, tùy chọn thời gian và ngày thích hợp). Kỷ lục về thi trượt lý thuyết là một phụ nữ ở Ilford đã thi tới 113 lần mà chưa đỗ (trong khi kỷ lục cho quý ông là 107 lần).

  1. Học lái xe và tìm thầy học lái xe

Bạn có thể học lái xe trên đường ngay khi có bằng lái xe tạm thời mà không cần phải đợi tới khi đỗ lý thuyết (đỗ lý thuyết là điều kiện để được thi thực hành). Việc học lái xe ở Anh khá tự do, và là một thị trường nhộn nhịp. Tự do theo nghĩa là bạn có thể dùng người nhà có trên 3 năm kinh nghiệm cầm lái ngồi cạnh để dạy bạn lái xe (với điều kiện xe bạn phải gắn biển L – learner, và xe có mua bảo hiểm cho bạn lái – chú ý là bảo hiểm cho learner sẽ khá đắt vì theo nguyên tắc, người mới học lái bao giờ cũng có nhiều rủi ro hơn so với người đã có bằng lái). Thị trường là ở chỗ có rất nhiều thầy dạy lái xe (driving instructor), nhiều trường dạy lái xe (driving school) với giá cả cạnh tranh nhau – mức trung bình theo giờ là khoảng £20/h (giá cả năm 2018, vùng Manchester). Giá này có thể cao hơn tùy theo người dạy, tùy khu vực, hoặc cũng có thể thấp hơn, tương tự như hàng hóa trên thị trường.

Chỉ cần dùng google search vài từ khóa liên quan tới dạy lái xe kèm theo khu vực mà bạn đang sống, bạn sẽ dễ dàng tìm được danh sách những người dạy lái xe gần nơi bạn sống. Chính phủ Anh có danh sách các driving instructor được cấp phép của chính phủ, bạn có thể dễ dàng tìm được những người đó gần khu vực bạn cần (tại đây) kèm theo các thông tin liên lạc chi tiết của họ (hãy tham khảo danh sách này để tránh bị lừa bởi những kẻ vô danh). “Kinh hoàng” hơn nữa là hàng năm chính phủ công bố cả danh sách tỉ lệ đỗ của học trò các driving instructor (tại đây) và bạn có thể tham khảo để chọn lấy một instructor hiệu quả. Điều này dẫn đến thị trường làm driving instructor cũng rất cạnh tranh để kiếm được tiền từ người học. Các instructor sẽ phải tận tình dạy làm sao cho học trò mình đậu (chứ ko phải cứ làm người ta trượt rồi học tiếp kiếm tiền mà hay), giá cả cũng phải cạnh tranh với người khác, đón người học tận cửa, đưa về đến tận nơi sau khi kết thúc. Về điểm này học lái xe ở Anh hơn đứt đất nước Đan Mạch mà tôi từng học, giá học thì đắt cắt cổ (gấp 2-3 lần UK), không cạnh tranh, người dạy thì kiêu như con hiêu, tự vác xác đến trường học, tự vác xác về, thầy dạy không care lắm tới việc làm sao để trò đỗ (hay ít nhất với instructor của tôi ở Đan Mạch là như vậy). Nước Anh không yêu cầu số giờ học tối thiểu để được phép thi lái xe (kể cả bạn không học giờ nào, nhưng nếu pass lý thuyết, nhảy lên xe lái chuẩn lúc thi là được cấp bằng). Vì cạnh tranh nên nhiều driving instructor cũng có nhiều dịch vụ dạy lái khác nhau: dạy theo giờ, hay dạy tập trung nhanh, gói học chọn gói,… Và hầu như bạn có thể đặt học lái tùy theo giờ giấc mà bạn chọn. Có những người học nhanh thì mất khoảng 20h học lái đã thi đỗ và lái tự tin, có những người có thể mất nhiều hơn thế vài lần,.. (vợ tôi chỉ mất chưa tới 40h lái xe, và đỗ ngay lần học đầu tiên).

Bằng lái xe của Anh phân làm 2 loại: bằng lái xe số sàn (manual) hoặc số tự động (automatic). Bạn cần chọn loại nào dễ với bạn để học và thi (chú ý là bằng lái xe số sàn có thể dùng để lái xe số tự động, nhưng ngược lại thì không).

  1. Đặt lịch thi và thi lái xe

Việc thi lái xe ở Anh có thể chủ động chọn (địa điểm, thời gian) bởi người thi. Có nghĩa là bạn có thể chọn thi ở bất kỳ trung tâm thi lái xe nào (bạn có thể tìm tại đây), vào thời gian tùy theo bạn đặt (tất nhiên tùy theo có còn slot trống). Sau khi có kết quả đỗ thi lý thuyết, bạn có thể đặt lịch thi lái (tại đây). Chi phí thi lái xe hiện nay là £62 cho ngày thường, hoặc sẽ là £75 nếu bạn muốn thi vào cuối tuần, hay là ngày nghỉ lễ hoặc buổi tối (chú ý là không phải trung tâm nào cũng có các giờ thi như vậy và không phải lúc nào cũng có thi vào các thời gian đặc biệt như vậy). Cách chung mà mọi người thường làm là học lái xe cho tới khi bạn quen với việc lái, sau đó đặt lịch thi (để có một mốc phấn đấu) và sau đó học tập trung để thi đõ chứ không học lan man không biết ngày tháng (vì vừa tốn tiền mà lại không có đích phấn đấu).

rule-182-do-not-cut-in-on-cyclists_orig
Một tình huống thi lái xe: Bạn sẽ trượt nếu hành xử như tình huống bên trái (major fault), và hành vi bên phải là đúng và an toàn (biết nhường xe đạp). Ảnh: https://www.highwaycodeuk.co.uk

Kinh nghiệm thi lái xe ở Anh là bạn chọn một trung tâm thi không quá xa nơi bạn ở (ví nếu xa quá thì hàng ngày bạn mất thời gian lái xe đến đó khi học lái) làm nơi thi chính, tìm thầy dạy có kinh nghiệm ở khu vực đó và hàng ngày học lái ở xung quanh khu vực thi. Instructor có kinh nghiệm tức là người từng có nhiều học trò thi đỗ tại đó, họ sẽ thuộc các tuyến đường mà thi sát hạch chạy qua và hiểu các vấn đề của từng tuyến đường để dạy ta. Bạn có thể tham khảo danh sách các trung tâm nào tỉ lệ đỗ (lần đầu) cao để chọn, hoặc tránh các trung tâm tỉ lệ trượt cao để tránh không thi ở đó nếu ngại. Mức độ dễ hay khó ở các trung tâm sát hạch không phải do người chấm (examiner) dễ hay khó, mà thường đến từ các tuyến đường phức tạp hay đơn giản (ví dụ với người thiếu kinh nghiệm thì lái trong trung tâm đông đúc có thể là khó), vì thế quan trọng vẫn là việc bạn lái xe ra sao.

3a9ddf58e6e24451ace9fef578925000
Khi thi sát hạch, examiner sẽ ngồi ghế bên cạnh bạn. Trong tình huống này, examiner phải thò tay vào tay lái giúp bạn, có nghĩa là bạn đã tạo ra một tình huống nguy hiểm và bạn sẽ bị trượt vì gây ra lỗi nguy hiểm này (Ảnh: https://www.autotrader.co.uk/)

Để thi đỗ bạn sẽ phải lái xe mà không bị mắc quá 15 lỗi nhỏ (minor faults) và không có một lỗi lớn (major faults; major faults lại được liệt làm hai dạng là serious fault – lỗi nghiêm trọng và dangerous fault – Bài thi sẽ bị stop nếu bạn gây ra dangerous fault, ví dụ như suýt đâm vào người khác) nào. Hãy nhớ là dù bạn chỉ có một lỗi nhỏ (hay thậm chí không có lỗi nhỏ nào), nhưng có một lỗi lớn thì sẽ vẫn trượt (hay là mắc tới 16 lỗi nhỏ thì chắc chắn trượt). Cách thức thi như sau (tham khảo tại đây):

  • Thời gian thi khoảng 40-45 phút;
  • Bạn cần có mặt tại trung tâm thi vào giờ thi mà bạn đã book (thường được khuyên là có mặt trước 15 phút), và examiner đầu tiên sẽ kiểm tra bằng lái xe tạm thời và yêu cầu bạn ký vào bảng chấm thi (việc này nhằm check đúng người thi);
  • Đầu tiên examiner sẽ yêu cầu bạn đọc biển số xe của một chiếc xe cách bạn chừng 20 m (việc này để kiểm tra mắt nhìn của bạn – nếu bạn bị cận thị thì nhớ chuẩn bị kính cho tốt) và sau đó cùng lên xe mà bạn sẽ lái, ngồi ở ghế phía trước bên cạnh bạn. Bạn cũng có thể yêu cầu instructor đi cùng bạn (ngồi ở ghế sau) để quan sát, nhưng instructor sẽ không được phép trợ giúp bạn;
  • Examiner sẽ hướng dẫn bạn chi tiết các yêu cầu thi cử bằng lời, và đảm bảo việc bạn hiểu yêu cầu thi và vào việc chính đầu tiên với phần thi “Tell me & Show me”. Đây là phần liên quan tới các kỹ thuật của xe mà bạn cần hiểu (bạn có thể tham khảo các câu hỏi của phần này tại đây). Chú ý: nếu câu hỏi là “Tell me” có nghĩa bạn sẽ trả lời bằng lời, còn “Show me” có nghĩa là bạn sẽ cần thực hiện các thao tác trên xe. Hãy học thuộc (và cả hiểu rõ) các câu hỏi này để trả lời trôi chảy ngay từ đầu (nếu bạn không trả lời được sẽ dễ dẫn tới tâm lý căng thẳng cho các phần thi tiếp theo). Nhưng theo instructor của vợ tôi trấn an thì nếu bạn trả lời sai các câu hỏi này thì cũng chỉ bị đánh lỗi minor.
  • Khi phần “Tell me and Show me” kết thúc (thường có 2 câu hỏi), bạn sẽ bắt đầu lái xe theo tuyến đường mà examiner yêu cầu. Sẽ có hai phần lái bạn cần thực hiện: lái theo chỉ dẫn của examiner (ví dụ như họ yêu cầu đi thẳng rồi rẽ trái, bạn cứ lái theo đó, nếu không nói gì thì cứ tiếp tục lại), và thực hiện một số thao tác (gọi là driving maneuver) như đỗ xe song song, quay xe trên phố,..; và lái xe độc lập (independent driving). Independent driving là phần thi khó nhất kéo dài khoảng 20 phút, bạn sẽ phải lái xe một cách độc lập để đi đúng một tuyến đường quy định (hoặc đến một địa điểm quy định) bằng cách dùng dẫn đường bằng bản đồ (Sat Nav) hoặc bằng cách nhìn các biển chỉ dẫn trên đường (tham khảo tại đây). Đôi khi bài thi có thể bắt đầu bằng phần independent driving trước tùy theo examiner yêu cầu.
  • Bài thi kết thúc khi examiner yêu cầu bạn lái xe trở lại trung tâm sát hạch và đỗ xe vào nơi quy định.
response20to20road20markings
Một tình huống gây lỗi lớn khiến bạn trượt: không biết sử dụng các vạch vẽ trên đường và tạo ra ác tắc giao thông ở junction box (Ảnh: https://www.safedrivingforlife.info)

Bạn sẽ ngay lập tức biết kết quả bài thi của minh khi xe đỗ, examiner sẽ yêu cầu cả instructor của bạn ngồi cạnh để giải thích chi tiết các lỗi mà bạn từng mắc phải trong bài thi và trả bạn bảng kết quả kèm với chi tiết các lỗi mà bạn vừa mắc phải:

  • Nếu bạn trượt (không ai mong muốn nhưng nó vẫn luôn xảy ra với nhiều người, trong đó từng cả tôi), bạn sẽ phải thi lại và thời gian chờ giữa hai lần thi là 10 ngày. Bạn nên đọc kỹ bảng chấm để biết mình từng mắc lỗi gì và học lại để loại bỏ các lỗi đó (đặc biệt là các lỗi lớn);
  • Nếu bạn đỗ (quá tuyệt), examiner sẽ chúc mừng bạn (nhưng vẫn cho bạn biết bạn mắc phải những lỗi gì để nên tránh khi lái xe trong tương lai), thu hồi bằng lái xe tạm thời của bạn, và trao cho bạn chứng chỉ thi đỗ kỳ sát hạch (với tên bạn và số bằng lái xe), và từ đây bạn được lái xe chính thức mà không cần có instructor. Bằng lái chính thức (Full driving license) sẽ được tự động gửi tới nhà bạn (địa chỉ mà bạn đăng ký trong bằng lái) trong vòng 3 tuần lễ

Lần đầu khi nghe về cách thức thi lái xe như vậy, tôi từng nghĩ nó quá dễ (so với kiểu thi lái xe chip trên sân tập ở Việt Nam) vì cho rằng lái trên đường trong điều kiện giao thông nghiêm chỉnh trật tự như ở đây thì quá dễ. Nhưng khi tham gia mới thấy không hề dễ và đúng là thi sát hạch lái xe ở Anh thuộc loại khó khăn nhất (nhưng cũng rất rõ ràng và công bằng). Bạn sẽ cần phải lái xe:

  • Một cách tự tin, an toàn và đúng luật (mà không có lỗi lớn và không vượt quá 15 lỗi nhỏ – no one can drive without faults);
  • Không gây cản trở giao thông, thành thạo các thao tác với xe
moving20off20safely
Một tình huống gây lỗi lớn (Major fault) khi thi lái xe: bạn xuất phát từ lề đường mà không quan sát điểm mù, thản nhiên cho xe chạy mà không biết có xe đang từ phía sau lao đến. Tình huống này examiner sẽ đạp phanh xe và bạn sẽ trượt (Ảnh: https://www.safedrivingforlife.info)

Với hai nguyên tắc căn bản nêu trên, bạn sẽ bị trượt nếu bị vướng vào các lỗi (lỗi nghiêm trọng):

  • Lái xe sai tốc độ quy định: hoặc là quá nhanh (ví dụ như đường quy định tốc độ tối đa 50 mph – 80 km/h, mà bạn lái xe tới 60 mph thì là quá nhanh – sẽ ăn đòn), hoặc là quá chậm (ví dụ đường quy định 40 mph mà bạn chỉ đi có 25 mph thì sẽ là quá chậm). Đừng tưởng chậm là an toàn vì chậm sẽ gây ùn tắc giao thông hoặc cản trở người phía sau. Quy tắc: đi đúng tốc độ quy định trên đường (bạn cần thuộc tốc độ chuẩn và quan sát đường để biết tốc độ đi trên đường – ví dụ như đi đường nhỏ trong khu dân cư đông thì phần lớn tốc độ chỉ là 20 mph). Có một số examiner khá tốt bụng, khi thấy bạn đi sai tốc độ (đi chưa lâu và chưa quá nghiêm trọng) có thể nhắc khéo bạn bằng câu hỏi: What is speed limit of this road?
  • Không chịu quan sát: khi khởi động xe bạn không chịu quay đầu quan sát các điểm mù, hay khi chuyển làn đường, khi rẽ, khi giảm tốc độ, khi dừng xe,.. mà không quan sát kỹ gương xe thì hầu như bạn sẽ bị đánh lỗi lớn (major fault) và sẽ trượt. Hay khi bạn rẽ ra đường lớn từ đường nhỏ, mà vội vàng để xe đi phía sau đuôi bạn phải đột ngột giảm tốc độ (thậm chí bóp còi) thì là lỗi lớn của tội không chịu quan sát.
  • Không nhường đường: cái này chắc chắn chết vì nhường là quy tắc đầu tiên cần nhớ. Bạn cần nhường đường đúng theo các quy định chuẩn của luật giao thông (ví dụ như nhường đường khi đi từ đường nhỏ ra đường chính, khi đi vào roundabout, nhường đường cho người đi bộ khi gặp pedestrian crossing, nhường đường cho phương tiện khi rẽ phải…).
  • Không biết sử dụng roundabout: roundabout là kiểu nút giao thông mà người Anh có vẻ rất thích và hầu như bất kỳ ai thi lái xe cũng đều gặp phải. Quy tắc chung: nhường đường cho phương tiện đang đi đến (từ bên phải), sử dụng xi nhan đúng khi vào và ra khỏi roundabout (tham khảo). Hay video này có thể hướng dẫn bạn cách đi qua roundabout (ở Anh) như thế nào.
  • Dừng, đỗ xe sai nơi quy định: trong quá trình thi sát hạch, examiner rất thường xuyên yêu cầu bạn dừng xe tại một nơi an toàn nhất để quan sát việc bạn dừng đỗ xe đúng quy cách. Bạn sẽ cần dừng lại bên lề đường (tại vị trí được phép dừng và cách lề đường với khoảng cách hợp lý) kèm theo việc quan sát kỹ phía sau, lề đường, ra dấu xi nhan. Bạn mà dừng xe tại cổng nhà người khác là sai luật, hay dừng xe vào vệ đường cấm dừng xe là lỗi lớn. Sau đó examiner có thể yêu cầu bạn thực hiện các yêu cầu (ví dụ ra instruction về independent driving hay làm các thao tác maneuver,..) hoặc bảo bạn đi tiếp khi an toàn để xem bạn xuất phát ra sao (lúc đó nếu bạn xuất phát sai quy cách cũng sẽ bị đánh lỗi lớn).
  • Không biết nhường đường cho các xe ưu tiên khi gặp (có tình huống đường đông, examiner thậm chí có thể hướng dẫn bạn phi xe lên vỉa hè để nhường cho xe ưu tiên).
  • Không biết thực hiện các thao tác maneuver: không thể đỗ xe song song, không biết quay xe (3-point turn)
  • Không giữ đúng khoảng cách với các xe xung quanh (trước mặt, hai bên) – lỗi không an toàn;
  • Liên tục để chết máy gây cản trở giao thông (chết máy 1-2 lần không phải vấn đề gì, hãy bình tĩnh ngay lập tức khởi động lại máy và tiếp tục đi, đừng để các xe phía sau đợi lâu và bóp còi thúc giục)
  • …vv.. còn gì nữa?

Chi tiết về các lỗi lớn (hay nguy hiểm) mà bạn cần tránh có thể tham khảo tại đây. Có một điều thú vị mà người ta rút ra từ data của các kỳ thi sát hạch: người càng thông minh, càng có bằng cấp cao lại có xác suất trượt kỳ thi sát hạch lái xe (ở Anh) nhiều hơn. Người giữ kỷ lục trượt thi lái nhanh nhất là Craig Barraza ở Aberdeenshire chỉ 5 giây sau khi xuất phát vì lao thẳng vào làn đường ngược chiều (bên phải), trong khi Christian Whiteley-Mason (ở Barnsley, South Yorkshire) giữ kỷ lục về kiên trì this au khi phải mất tới 25 năm (từ 1992) để có được bằng lái xe vào năm 2017 sau khi trải qua 33 lần thi (và 14 instructor khác nhau), tiêu tốn hơn £10,000 cho việc học lái xe.

response20to20traffic20lights
Lái xe lao qua vạch dừng khi đèn đỏ vừa chuyển qua cũng là một lỗi lớn khiến bạn trượt (Ảnh: https://www.safedrivingforlife.info/)

Bạn cũng nên chú ý rằng lỗi nhỏ cũng có thể biến thành lớn khi mà bạn lặp đi lặp lại lỗi đó nhiều lần (ví dụ như xe liên tục chết máy tới 4-5 lần thì examiner có thể quy cho bạn chưa thành thạo về xe và chưa xứng đáng cấp bằng), và ngược lại, cũng có khi lỗi lớn lại có thể được xem xét thành lỗi nhỏ tùy theo hành xử của bạn trọng toàn bộ bài thi. Ví dụ, lỗi không quan sát gương chiếu hậu khi giảm tốc độ dể dừng xe có thể bị coi là lỗi lớn khi bạn đang đi xe giữa đường, và bạn giảm tốc mà không quan sát gương chiếu hậu để biết rằng phía sau bạn đang có xe chạy khá gần. Nhưng có tình huống examiner có thể cân nhắc đánh giá thành minor fault khi cả bài thi của bạn khá tốt (kể cả các hành vi) khi xe phía sau đi cách bạn cũng khá xa và không ảnh hưởng gì tới giao thông. Đây là kiểu các lỗi thuộc dạng “critical fault” mà việc quy nó vào minor hay major là 50/50. Bạn cũng hãy nhớ rằng nếu examiner phải thò tay (hay chân) vào xe có nghĩa là bạn đã mắc lỗi lớn và sẽ trượt (ví dụ như examiner thò tay đẩy tay lái, hay thò chân đạp phanh xe).

rule-151-do-not-block-access-to-a-side-road_orig
Một tình huống nhạy cảm có thể khiến bạn trượt bài thi nếu dừng xe sai vị trí trên đường giao thông nối dài. Hãy tưởng tượng nếu bạn lái xe màu xanh (ở cuối hàng) và đang phải tạm dừng trên đường vì một ùn ứ. Vị trí ở trong hình là chuẩn xác, nhưng nếu bạn cố lái xe thêm một chút gây cản chở các xe ở làn đối diện đang muốn rẽ phải vào đường cắt ngang, bạn sẽ có nguy cơ bị đánh lỗi lớn. Ảnh: https://www.highwaycodeuk.co.uk

Rất nhiều người lái xe thành thục khi học (như trường hợp bản thân tôi, khi học lái instructor thậm chí khuyên đừng phí tiền học thêm nhiều giờ nữa) nhưng trượt vì bị vấn đề tâm lý. Mỗi lần vào thi đều cảm thấy rất hồi hộp và gây ra những lỗi rất ngớ ngẩn. Và tâm lý này sẽ càng lớn khi bị trượt vài lần, và cách đỗ được phải là giải tỏa được tâm lý căng thẳng này. The Privilege DriveXpert (trong kết quả công bố về tỉ lệ trượt cao hơn ở những người có trình độ cao) lý giải rằng những người càng có trình độ cao, càng dễ có tâm lý hồi hộp và dẫn đến xác suất trượt thi sát hạch cao hơn. Tâm lý này xuất phát từ việc họ coi bài thi sát hạch là một điều gì đó rất nghiêm túc và nếu trượt họ sẽ rất xấu hổ ngại ngùng với mọi người.

Thay lời kết, lái xe (mà cụ thể trong bài này là lái ô tô) là việc không còn là điều mới mẻ (nhất là ở các nước phát triển). Bạn có nhu cầu lái xe, hãy học lái xe (để có thể lái xe một cách an toàn, đúng luật) và thi bằng lái xe. Bằng lái xe của Anh được coi là khó kiếm nhất nhưng cũng rất có giá trị để có thể lái xe khắp nơi trên thế giới. Hi vọng bài viết này cung cấp cho bạn một cái nhìn tổng quát nhất về các quy tắc lái xe chung ở Anh và nguyên tắc chung để có thể có bằng lái xe. Chúc bạn lái xe an toàn (an toàn của chính bản thân và gia đình bạn, an toàn cho những người xung quanh)!

Lái xe và học lái xe ở Anh

Sống ở Anh, hay các nước phát triển khác (Đức, Pháp, Mỹ, Nhật, Hàn,..) thì việc có biết lái xe (tức là có bằng lái xe ô tô) và có một chiếc xe hơi riêng không phải là việc gì cao sang (mà hình như giờ ở Việt Nam việc này cũng không phải là điều gì quá mức khi mà giờ có rất nhiều người có thu nhập cao). Ngay cả khi bạn không thường xuyên đi lại bằng phương tiện cá nhân, thì việc biết lái xe và có bằng lái xe vẫn luôn rất tiện lợi cho bạn khi cần, ví dụ khi đi chơi xa bạn có thể thuê xe tự lái (việc này đặc biệt tiện lợi khi bạn có gia đình với trẻ nhỏ),.. Bằng lái xe ở các nước Châu Âu (trong đó có Anh), Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Úc,.. là những bằng lái xe “rất powerful”, vì chúng có thể dùng để lái xe ở khắp nơi trên thế giới mà không cần thi đổi bằng lái (nếu bạn muốn đổi sang bằng lái local, bạn không cần thi thêm kỳ thi sát hạch nào). Vì thế, một khi sống ở Anh (hay các nước phát triển khác) nếu không khó khăn về kinh tế và thời gian, bạn cũng nên có một tấm bằng lái xe. Bài này sẽ chia sẻ với bạn những kinh nghiệm về lái xe, cũng như học lái xe ở Anh (điều này có thể tương tự ở nhiều nước Châu Âu khác).

Phần 1. Lái xe, sở hữu xe ô tô ở Anh

Vương quốc Anh là nơi sinh ra kiểu giao thông đi bên trái đường (khác với Việt Nam chúng ta lái xe phía bên phải). Số nước trên thế giới theo kiểu lái xe bên trái của Anh chiếm thiểu số và hiện nay còn khoảng đâu đó 70 nước, vùng lãnh thổ lái xe bên trái (xem danh sách này), hầu hết đều có gốc gác dính dáng tới Anh (từng là thuộc địa của Anh), như Australia, New Zealand, Singapore, Hong Kong, Ấn Độ.., hoặc những nước thiết chế kiểu Anh, như Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia,.. Có nghĩa là nếu học lái xe ở Anh (quen đi bên trái đường) thì bạn vẫn có thể lái tự tin ở khá nhiều nước chứ không hoàn toàn là không thể dùng được ở đâu.

Nhưng ngay cả khi bạn quen lái xe bên trái như ở Anh, bạn vẫn hoàn toàn lái xe một cách thoải mái ở nhiều nước lái bên phải. Ví dụ như xe ở Anh, có thể chạy thẳng sang các nước EU (lái bên phải) và được chấp nhận lưu thông bình thường (và ngược lại). Khi bạn mua bảo hiểm lái xe ở Anh, bảo hiểm thường cover cả lái xe ở EU trong một thời gian. Có nghĩa là nếu bạn lái xe thuần thục ở Anh (lái bên trái), thì bạn cũng sẽ chẳng gặp vấn đề gì lớn khi lái xe ở các nước lái bên phải cả. Tôi vẫn thấy nhiều bạn và đồng nghiệp của tôi từ các nước lái xe bên tay phải ở EU, sang UK lái xe bên tay trái hoàn toàn tự tin và không gặp chút vấn đề gì.

Nhiều người nói rằng lái xe ở Việt Nam rồi thì sang UK (hay “sang Tây”) cứ gọi là chấp một mắt, đi đơn giản, thi vèo cái lấy bằng ngay. Nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại (từ chính bản thân tôi). Tôi từng lái xe ở Việt Nam, có bằng lái Việt Nam (điểm thi lái xe ở Việt Nam của tôi là cao tuyệt đối – không mất điểm nào kể cả lý thuyết lẫn thực hành), nhưng tôi phải trầy trật mới lấy được bằng lái xe ở Anh (sau khi trượt cả ở Đan Mạch). Kinh nghiệm của tôi và một số bạn khác từng lái xe ở Việt Nam sau đó ra nước ngoài thì là một khi bạn từng lái xe ở Việt Nam, bạn thường bị nhiễm phải nhiều thói quen lái xe rất xấu ở Việt Nam (ví dụ như, tùy tiện lấn đường, không nhường đường, lái tốc độ tùy tiện không đúng tốc độ, không quan sát gương, không quan sát kỹ điểm mù khi xuất phát, không giữ đúng khoảng cách hoặc dùng sai làn đường,…).  Ở UK hay các nước đang phát triển quả thật dễ dàng ở chỗ rất ít khi gặp cảnh sát giao thông bắt lỗi (ví dụ như hiếm khi nào có ai bị phạt vì lỗi bánh xe đè vạch như ở Việt Nam), hầu hết các xe đều tuân thủ luật rất nghiêm ngặt và tự giác khiến cho  giao thông trở nên đơn giản hơn, nhưng nếu bạn không lái xe tuân thủ các quy tắc giao thông, bạn có thể gây tay nạn chết người, ví dụ, như không chịu nhường đường khi rẽ phải ở Anh (hay rẽ trái ở Đức), hoặc đi từ ngõ ra đường lớn, hay đi vào roundabout (vòng xuyến) mà không dừng lại quan sát, nhường đường, bạn có thể gây tai nạn vì các xe khác chạy rất nhanh (đúng với tốc độ tối đa cho phép đi trên đường).

m25pa
Lái xe trên đường cao tốc ở Anh cũng là một thử thách: tốc độ cao với nhiều làn rối rắm (Ảnh: https://www.aol.co.uk)

Quy tắc lái xe chung ở Anh (và các nước phát triển khác mà tôi biết, như Đức, Đan Mạch,..) là lái xe hết với tốc độ tối đa cho phép trên đường nhằm đảm bảo giao thông liên tục không bị tắc nghẽn (ví dụ như trên đường phố, tốc độ cho phép là 30 mph (tức là khoảng gần 50 km/h), hay trên cao tốc sẽ là 70 mph (gần 120 km/h) thì sẽ chạy 30 mph trên đường phố và 70 mph trên cao tốc (ngoại trừ khi ách tắc giao thông).Tùy tiện đi quá chậm hay quá nhanh, tùy tiện chuyển làn, lấn làn (ví dụ như đường tắc, nhưng cũng không ai đi xe vào làn ngược chiều để vượt dù không có dải ngăn cách) không phải là những thói quen lái xe thường thấy.  Nói chung, “bên Tây” lái xe nhanh thì cực nhanh nhưng cũng rất bình tĩnh và kiên nhẫn đợi, nhường chứ không cố gắng nhanh ẩu, mà cũng không lừ lừ đi chậm gây cản trở người khác.

Lái xe luôn có xu hướng giữ làn đường bên trái (sẽ là làn bên phải nếu ở các quốc gia lái bên tay phải), và dùng làn bên phải để vượt (hoặc rẽ phải). Khi vượt qua, xe sẽ lại trở lại làn bên trái khi đủ an toàn. Quy tắc nhường đường (ví dụ như vào roundabout, đi từ đường nhỏ ra đường lớn, cắt nhau đường ưu tiên,.. nhường người đi bộ ở nơi qua đường – pedestrian crossing) là phải tuyệt đối tuân thủ. Ngoài ra khi có các xe ưu tiên (xe cứu thương, cứu hỏa, cảnh sát) thì phải ngay lập tức tránh đường  nhường các xe này. Đường xá ở UK thì cũng không phải quá hiện đại (nói thật ra là hạ tầng cơ sở ở UK đã rất cũ kỹ vì đã được xây lâu đời), chỉ được cái đồng bộ, rõ ràng. Khi lái xe, bạn chỉ cần tuân thủ đúng các biển hiệu, vạch đường,.. thì không bao giờ sợ bị phạt. Ví dụ như nhìn một đường, bạn sẽ  biết ngay lập tức được bạn có thể đỗ xe được hay không khi nhìn các biển báo, vạch kẻ đường, hay đỗ xe bị charge phí, hay là không thể đỗ xe,.. mà không sợ phải cãi nhau với cảnh sát giao thông rằng chỗ này có được đỗ hay không, hay cũng chẳng bao giờ sợ ai đó bôi bẩn xe bạn vì đỗ phía ngoài cửa hàng của họ như ở Việt Nam..

Tuy rất ít khi thấy bóng dáng cảnh sát giao thông, nhưng một khi bị camera giám sát chụp ảnh vi phạm, thì chủ xe sẽ nhận vé phạt gửi đến tận nhà rất nhanh, và nếu không đóng tiền phạt, vé phạt tiếp theo gửi đến sẽ có mức phạt tăng lên và sau đó sẽ là trát của tòa án gọi bạn ra tòa. Lúc đó sự việc sẽ trầm trọng hơn vì bạn coi thường luật pháp. Ở Anh có một hình thức “giảm giá phạt” cho những người đóng tiền phạt sớm. Ví dụ như lỗi đi vào làn đường xe bus (hoặc đường cấm) ngoài giờ cho phép, bạn sẽ bị phạt £60. Nếu bạn đóng tiền phạt sớm (bạn có thể dùng thẻ đóng online, hoặc ra các off-license shop, hay bưu điện đóng,..vv) trước ngày quy định, bạn sẽ được giảm một nửa tiền phạt (tiền này tự động tính giảm giá khi bạn nộp mà bạn không cần yêu cầu). Mức nặng của phạt vi phạm giao thông là trừ điểm bằng lái hoặc ra tòa khi có các lỗi nghiêm trọng. Ví dụ như cựu cậu thủ Manchester United Wayne Rooney bị cảnh sát Wilmslow bắt khi lái xe trong tình trạng say xỉn vào đêm 1/9/2017, phiên tòa ngày 18/9 đã xử phạt Rooney bị cấm lái xe trong 2 năm và phạt 12 tháng lao động công ích tương đương 120 giờ lao động công ích (ví dụ như đi rọn rác công viên..). Lỗi quá tốc độ được quy định phạt 100 bảng và trừ 3 điểm vào bằng lái (trong vòng 3 năm nếu bạn bị trừ 12 điểm, bằng lái sẽ bị hủy bỏ – nặng hơn với các lái xe mới, trong vòng 2 năm đầu tiên kể từ khi có bằng lái, nếu bạn chỉ cần bị 6 điểm phạt, bạn cũng sẽ bị hủy bằng lái). Một thói quen mà rất nhiều lái xe Việt Nam hay mắc là thản nhiên vừa lái xe vừa gọi điện thì ở Anh, bạn sẽ bị phạt 200 bảng và 6 điểm phạt, hay thậm chí phạt tù nếu bạn gây các tai nạn nguy hiểm. Nói chung  mọi người nói “lái xe ở Tây” dễ như bỡn cũng không hẳn sai, nhưng mang thói quen lái xe từ Việt Nam sang áp dụng thì nhẹ thì bị phạt tiền mà nặng thì tước bằng lái hay vào tù như bỡn.

97845593_rooneypa2
Ngôi sao bóng đá Wayne Rooney ra tòa 9/2017 vì tội Wayne Rooney bị cảnh sát Wilmslow bắt khi lái xe trong tình trạng say xỉn vào đêm 1/9/2017 (Ảnh: BBC.co.uk)

Giá xe ở Anh nói chung rẻ so với Việt Nam, và thậm chí còn rất rẻ nếu bạn mua xe cũ (gọi là xe cũ, có nghĩa là xe đã qua xử dụng, có thể rất cũ, hoặc gần như mới). Mua bán xe (cả cũ cả mới) là một thị trường sôi động ở Anh, bạn có thể dễ dàng mua xe, hoặc bán lại xe cũ của bạn nếu muốn đổi xe khác (việc sang tên đổi chủ là hoàn toàn miễn phí). Thậm chí bạn có thể mua xe cũ online và chở đến tận nhà, hay mua trả góp rất dễ dàng (dù là xe cũ hay xe mới) ở các car dealer. Mua bán cá nhân thì thậm chí còn rẻ hơn, nhưng tất nhiên rủi ro cao hơn so với mua từ các dealer (mua xe cũ từ dealer thì sẽ có bảo hàng khoảng 3 tháng, loại trừ các xe kiểu CAT – xe hỏng sửa lại do bảo hiểm vứt đi).

Vấn đề lớn nhất trong việc lái xe ô tô riêng ở Anh là bảo hiểm (có lẽ lớn nhất với các tài xế mới hoặc tài xế trẻ). Bảo hiểm xe hơi ở Anh là tự do theo thị trường và không phải ở một mức cố định. Giá của một gói bảo hiểm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố:

  • Chiếc xe bạn lái (ví dụ như xe đắt tiền thì nguy cơ đền bù cao hơn nên giá bảo hiểm có thể cao hơn);
  • Độ tuổi của người lái: thống kê của Bộ Giao thông Anh (ví dụ như con số năm 2015) thì có tới 75% các tai nạn xe hơi nghiêm trọng là do các tài xế trẻ (trong độ tuổi từ 17-24) trong khi tổng số tài xế trẻ lái xe chỉ khoảng 7%. Vì thế ở độ tuổi dưới 25, bảo hiểm xe hơi ở Anh là rất đắt đỏ (trung bình thường trên £2400 một năm);
  • Kinh nghiệm của người lái xe: năm đầu tiên bảo hiểm thường khá đắt đỏ, và con số này sẽ giảm đáng kể ở các năm tiếp theo và sau 2-3 năm lái xe thì bảo hiểm đã giảm đi đáng kể;
  • Nghề nghiệp của người lái: nếu người lái xe (đứng tên bảo hiểm) làm các nghề nghiệp hay phải lái xe nhiều thì tiền bảo hiểm sẽ tăng lên (vì người ta cho rằng nguy cơ rủi ro cao hơn);
  • Sử dụng xe nhiều hay ít: xử dụng xe càng nhiều (annual mileage) thì tiền bảo hiểm càng nhiều;
  • Khu vực của địa chỉ nhà: địa chỉ đăng ký xe nếu ở các khu vực nhiều trộm cắp xe chẳng hạn, thì bảo hiểm sẽ càng tăng lên (vì theo logic là nguy cơ mất trộm xe cao hơn); hay nếu nhà bạn có sân đỗ xe riêng thì sẽ tốn ít tiền bảo hiểm hơn là so với việc bạn phải đõ xe ngoài phố (vì nguy cơ va chạm sẽ cao hơn nếu bạn đỗ xe ngoài phố).
  • Bằng lái xe từ nước ngoài đến sẽ bị tính nhiều tiền hơn,
speeding-fines-tickets-new-laws-rules-uk-government-795209
Cảnh sát Anh (nước Anh không có lực lượng cảnh sát giao thông chuyên trách như Việt Nam): rất ít thấy trên đường để tóm xe vi phạm giao thông như ở Việt Nam, nhưng cũng xuất hiện rất nhanh và phạt rất nghiêm (Ảnh: https://www.express.co.uk).

Bảo hiểm ở Anh là bảo hiểm cho người lái xe gắn với chiếc xe cụ thể đó, một người dù có bằng lái, nhưng sẽ bị coi là bất hợp pháp khi lái một chiếc xe mà bảo hiểm không cover cho anh ta (ví dụ như xe của tôi, nhưng bạn tôi lái là không được phép nếu như bảo hiểm của tôi không có tên bạn tôi trong đó). Điều này cũng có mặt tích cực là ít có tình trạng tùy tiện dùng xe như ở Việt Nam (theo tôi hiểu thì bảo hiểm xe hơi ở Việt Nam là bảo hiểm cho chiếc xe, một khi bảo hiểm được mua thì bất kỳ ai có bằng lái đều nhảy lên lái là hợp pháp – nếu sai xin giúp tôi correct điều này??).

Năm đầu tiên mua bảo hiểm xe hơi ở UK khá đắt, có thể từ £1000-£2000 tùy theo từng người (tùy địa chỉ nhà, tùy nghề nghiệp – theo các tiêu chí mà tôi nói bên trên), và giá mua bao hiểm thay đổi xoành xoạch theo thị trường, giá cả có thể thay đổi theo từng ngày khi bạn quote bảo hiểm trên mạng. Có rất nhiều nhà cung cấp bảo hiểm. Từ năm thứ hai trở đi, giá bảo hiểm giảm đáng kể (như của tôi giảm tới 2 lần kể từ năm thứ 2) và sau vài năm giá giảm chỉ còn khoảng £500-700 (như một đồng nghiệp của tôi lái xe 5 năm chỉ mất chưa tới £600 bảo hiểm).

Ngoài ra cũng còn những khoản tiền khác cần xem xét, như thuế đường (tùy thuộc vào xe thải nhiều khí hay ít, ít thì 0, hay £20-30, hay thậm chí một vài trăm bảng một năm,.. vì thế khi mua xe cần xem xét thông số thải CO2 của xe nhiều hay ít), phí kiểm định hàng năm MOT (có thể từ £15-30), bảo dưỡng xe định kỳ hàng năm (có thể một vài trăm bảng), xăng xe, tiền đỗ xe,..

Nói chung mua xe thì dễ, lái xe cũng không khó, nhưng nuôi xe cũng là một việc cần tính toán. Nhưng một điều chắc chắn là việc đầu tiên cần làm khi muốn lái xe là phải có bằng lái xe.

(Đón đọc phần 2: Học lái xe và lấy bằng lái xe ở Anh)

Hồi ký Trường hè Khoa học Việt Nam (kỳ 2)

Lựa chọn học viên

Sự ra mắt của VSSS’01 (2013) đã thành công vượt ngoài mong đợi của chúng tôi. Trước khi khởi động, tôi và Hưng đã dự kiến với nhau rằng thu hút được khoảng 50 học viên đã là một thành công, nhưng con số thực tế còn hơn nhiều so với mong đợi. Chỉ trong có 5 ngày thông báo khóa học (hoàn toàn trên facebook), đã có hơn 100 người nộp CV đăng ký tham dự, và khi đóng cửa hồ sơ (hơn 2 tuần thông báo), chúng tôi đã có tới 180 hồ sơ đăng ký. Ba chúng tôi cùng bàn bạc và đi tới quyết định sẽ chọn 80 hồ sơ tốt nhất để mời tham dự lớp học. Lý do chọn 80 hồ sơ vì:

  • Chúng tôi thích một lớp học vừa đủ để giảng viên có thể tự do giảng bài mà không cần đến các công cụ hỗ trợ kiểu như micro. Nó sẽ cho phép giảng viên thoải mái hơn, không giống như các lớp học tập huấn trong các hội trường lớn;
  • Một số lượng vừa đủ cũng sẽ khiến cho việc tương tác thầy – trò trở nên dễ dàng hơn vì chúng tôi muốn một lớp học mà trò với thầy sẽ có những tranh luận nảy lửa;
  • Nếu số lượng quá nhỏ sẽ khiến chúng tôi khó lựa chọn, đồng thời sẽ khó tạo ra effect lớn cho cộng đồng.
  • 80 là một con số vừa đủ với một phòng hội thảo ở nhà T1 của Đại học Khoa học Tự nhiên ở Thanh Xuân, với sức chứa tối đa tới hơn 90 người

Ba chúng tôi phải cùng đọc và duyệt 180 hồ sơ này, sau đó ngồi chốt lại với nhau để đi tới lựa chọn cuối cùng. Việc này diễn ra trong một đêm trên Skype meeting, hoàn thành sau hơn 6h làm việc liên tục. Danh sách 80 học viên cuối cùng được chọn ra lúc hơn 3h đêm sau vô số tranh cãi rằng bạn X là rất có tiềm năng nên chọn, bạn Y thì không thật sự chứng tỏ thích thú nghiên cứu dù CV rất pro,… Việc này sau này luôn trở thành quen thuộc với Ban Chương trình của VSSS: làm việc online để chốt lại việc chọn danh sách, thâu đêm cãi cọ để lựa chọn những người xứng đáng và chốt lại danh sách lúc gần sáng (Hưng luôn là người phải thức thâu đêm trong suốt 5 năm qua cho những cuộc họp kiểu này).

Việc chọn lựa học viên luôn là thứ gây tranh cãi nhiều nhất trong nội bộ những người tổ chức Trường hè. Lựa chọn một người có hồ sơ xuất sắc (một CV chuẩn bị rất đẹp với nhiều thành tích nổi bật, năng nổ trong các hoạt động,..), hay một người có tiềm năng trở thành nhà nghiên cứu, hay một người thể hiện sự say mê theo con đường nghiên cứu,.. Chúng tôi thống nhất với nhau lựa chọn theo hình thức chấm điểm thông qua các tiêu chí:

  • Sự chuẩn bị CV + cover letter,..
  • Sự thể hiện lòng yêu thích con đường nghiên cứu khoa học
  • Tiềm năng có thể theo đuổi con đường nghiên cứu trong tương lai
  • Các thành tích học tập nghiên cứu thể hiện trong CV

Mỗi ứng viên sẽ được chấm điểm bởi tất cả các thành viên ban Chương trình theo các tiêu chí trên và cộng tổng điểm, rồi xếp theo thứ tự từ cao đến thấp. Trong các tiêu chí này, tiêu chí (1) và (4) tương đối dễ đánh giá, nhưng các tiêu chí (2) và (3) là không dễ dàng. Nhưng cuộc sống là vậy, chẳng điều gì có thể tuyệt đối khách quan, và đã là so sánh, lựa chọn thì khó tránh khỏi những đánh giá chủ quan.  Từ kỳ VSSS’02 trở đi, sau khi công bố kết quả lựa chọn, chúng tôi vẫn luôn nhận được rất nhiều “khiếu nại” từ những người nộp hồ sơ, ví dụ như:

  • Hồ sơ của em rất pro, tại sao em không được chọn? –> thực tế là ứng viên có hồ sơ quá xuất sắc và chúng tôi cho rằng khóa học này quá nhỏ với bạn, vì những CV của bạn đã cho thấy tất cả những kỹ năng dạy ở Trường hè này bạn đều đã học thuần thục, và chúng tôi cho rằng bạn nên nhường cho các bạn có hồ sơ kém hơn chút, nhưng cần các kỹ năng này;
  • Hồ sơ cũng rất tốt, tại sao,..? –> Có không ít các bạn từng du học đại học, master ở các nước phương Tây tham gia ứng tuyển, và chúng tôi đã loại không ít các ứng viên này vì cho rằng họ đã được đào tạo rất bài bản ở trường học những kỹ năng mà chúng tôi sẽ dạy
  • Hồ sơ của em rất tốt,.. tại sao..? –> Có một nhóm không nhỏ các hồ sơ chuẩn bị rất tốt, nhưng những lời bộc bạch lại không bày tỏ việc có ý định theo đuổi nghiên cứu trong tương lai (ví dụ như nhiều bạn bày tỏ mong muốn sẽ trở thành những nhà kinh doanh tài xuất sắc,..)

Và từ năm thứ hai trở đi, số lượng hồ sơ đăng ký bùng nổ đột biến, luôn vượt con số 300-500 người đăng ký và việc xét duyệt hồ sơ luôn là một việc chẳng dễ dàng gì.

Có một chuyện rất thú vị là từ hồ sơ đăng ký làm học viên, chúng tôi thậm chí tìm ra thêm giảng viên cho Trường hè, đó là Trường hợp của Tô Mai Hương và Nguyễn Thu Hường (VSSS’03 – 2015). Hai nữ nhà khoa học này dù đều có bằng PhD ở nước ngoài mới về Việt Nam, và đã nộp hồ sơ đăng ký tham dự VSSS vì cho rằng họ rất thiếu những kỹ năng mà chúng tôi đang giảng dạy. Chúng tôi đã trực tiếp phỏng vấn hai bạn, và quyết định mời cả hai tham dự VSSS’03 với vai trò trợ giảng cho lớp học, và sau đó họ đã cùng tham gia giảng dạy và tổ chức các kỳ VSSS tiếp theo.

(Còn nữa…)

Hồi ký Trường hè Khoa học Việt Nam (kỳ 1)

Đây là những dòng tự thuật của bản thân tôi về một hoạt động giáo dục mà tôi là một trong những người sáng lập và điều hành: Trường hè Khoa học (Vietnam Summer School of Science, VSSS) với mong muốn sẽ có thêm nhiều nhà khoa học Việt Nam hiểu hơn về nó, cùng chung tay với chúng tôi phát triển nó vì tương lai khoa học Việt Nam. Nghe cụm từ “vì tương lai khoa học Việt Nam” có thể quá cao cả và xa vời, nhưng có thể hiểu đơn giản hơn chút, cùng truyền cảm hứng khoa học cho giới trẻ.

VSSS ra đời như thế nào

Tháng 7/2013, tôi kết thúc hợp đồng với Đại học Quốc gia Singapore (NUS) và có một kỳ nghỉ 3 tháng ở Hà Nội trước khi bắt đầu công việc mới ở Đan Mạch. Kỳ nghỉ này có lẽ là dài nhất và cũng nhiều sóng gió nhất đối với tôi kể từ khi bắt đầu bước chân vào con đường khoa học. Nhân dịp này, tôi có thăm lại cơ quan cũ (nơi tôi bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình) và một số trung tâm nghiên cứu ở Hà Nội. Tôi đã gặp lại nhiều đồng nghiệp cũ và nhiều nhà khoa học, giảng viên đại học trẻ (mới tốt nghiệp đại học). Tôi cứ ngỡ không khí khoa học và học thuật ở các trung tâm nghiên cứu giờ phải chuyên nghiệp lắm khi đọc những bài báo về các tấm gương khoa học ở Việt Nam, nhưng hóa ra tình trạng vẫn chẳng khác gì cách đó hơn 3 năm khi tôi mới tốt nghiệp từ Anh trở về Việt Nam: không khí chơi game online thật sôi động trong các văn phòng, kinh doanh bất động sản vẫn luôn là chủ đề thảo luận sôi nổi thay cho các vấn đề học thuật chán ngắt,.. Các cán bộ khoa học trẻ, những người tôi cứ nghĩ rất năng động và đang sôi nổi trong các vấn đề khoa học thì có vẻ như vẫn rất tích cực học hỏi từ các đàn anh trong các vấn đề sôi nổi đó. Một câu hỏi cá nhân (mà tôi khá dị ứng) mà tôi rất hay được hỏi: làm ở nước ngoài lương bao nhiêu? (và tiếp sau câu trả lời của tôi sẽ là những câu quảng cáo còn khiếp hơn: “oài, có vài ngàn đô, về đi buôn đất còn giàu hơn”; hay là “giờ làm khoa học ở nhà tiền nhiều lắm, có khi còn hơn nước ngoài, về đi em!!”,..vv.. ). Những sinh viên đang học đại học lại cho tôi thấy sự tích cực hơn bằng nhiều câu hỏi và băn khoăn liên quan tới vấn đề nghiên cứu khoa học và vấn đề sự nghiệp tương lai. Những hình ảnh về các sinh viên, các đồng nghiệp trẻ cứ vấn vương mãi trong đầu tôi.

Thật may mắn lúc đó tôi gặp Lưu Quang Hưng, một người bạn học cùng khóa thời đại học (Hưng học khoa Toán, tôi học khoa Lý), và đang là đồng nghiệp của tôi ở NUS, cũng đang về nghỉ hè ở Hà Nội. Hưng chia sẻ cùng tôi những thực tế mà tôi vừa gặp và hỏi tôi: “Có cách gì thay đổi thực tế này không nhỉ?” Trong một vài phút ngắn ngủi, cả hai đứa cùng nảy ra một khóa học truyền cảm hứng bằng cách kỹ năng nghiên cứu và định hướng nghề nghiên cứu. Chúng tôi bàn luận sôi nổi về chuyện khóa học này sẽ như thế nào, giành cho ai,.. thế nhưng chỉ có hai thằng với hai bàn tay trắng thì làm được gì không. Hưng hỏi tôi: “Liệu hai thằng mình có làm được gì không nhỉ?” Tôi quả quyết: “Phải làm Hưng ạ, nếu giờ không làm, vài năm nữa chúng ta sẽ hối tiếc vì sẽ qua đi tuổi thanh xuân đang tràn đây sức lực.” Thế là hai chúng tôi đi đến quyết định sẽ bắt đầu kế hoạch này. Trường hè Khoa học có thể coi như được phôi thai từ cuộc nói chuyện này. Tôi và Hưng bàn chuyện này cùng anh Giáp Văn Dương, người từng là đồng nghiệp với chúng tôi ở NUS gần 1 năm trước đó. Lúc này anh Dương đã trở lại Việt Nam và bắt đầu khởi nghiệp bằng Giapschool, vẫn còn đang ngổn ngang bao khó khăn. Anh Dương ủng hộ chúng tôi ngay lập tức và trở thành người thứ ba sáng lập ra VSSS. Nhưng ban đầu cả ba chúng tôi cũng khó mà làm được gì nếu như không có sự ủng hộ từ một số cán bộ Đại học Quốc gia Hà Nội.

Ban đầu, chúng tôi dự định làm một lớp học độc lập, miễn phí và chả cần một cơ quan nào host. Nhưng rồi chúng tôi nhận thấy sẽ vướng phải các vấn đề pháp lý trong việc tổ chức các hội thảo,.. nên nghĩ đến việc tìm một trường đại học để host khóa học này. Tôi và Hưng nghĩ ngay đến trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội, nơi chúng tôi từng học (thú thật là đây là “tư lợi cá nhân”, luôn muốn trường cũ của mình hưởng lợi trước). Hưng tìm đến chị Trịnh Thị Thúy Giang, lúc đó là Trưởng phòng Tổ chức Cán bộ. Khi đọc bản kế hoạch và nội dung Trường hè, chị Giang ủng hộ ngay lập tức: “Những nội dung hay như thế này thì phải ủng hộ ngay, nhà trường rất muốn đào tạo những kỹ năng này cho sinh viên và cán bộ trẻ mà chưa làm được!” Chị Giang ngay lập tức cùng anh Nguyễn Thanh Bình, tân trưởng phòng Chính trị và Công tác Sinh viên, người thứ hai ở ĐHKHTN ủng hộ chúng tôi, chuẩn bị tất cả những thứ để chúng tôi có thể bắt đầu trường hè từ con số 0: một giảng đường rộng ấm cúng chứa được 100 sinh viên cùng các thiết bị giảng dạy cần thiết (máy chiếu, máy tính,..), và những thứ phụ mà không kém phần quan trọng cho các lớp học: trà, cà phê, bánh ngọt cho các buổi giải lao của Trường hè. Một khởi đầu không thể tốt hơn cho lớp học của chúng tôi.

Trường hè dạy những gì?

Với những sự ủng hộ ban đầu không thể tốt hơn, tất cả chúng tôi cần làm là chuẩn bị nội dung giảng dạy, giảng viên và tuyển sinh. Tôi và Hưng đã cùng thống nhất tên gọi đầu tiên của Trường hè là “Hành trang khoa học” (các tên gọi sau này của Trường hè đều do Hưng đề xuất và tôi thấy rất hợp lý), với những nội dung chính như sau:

  • Hành trang khoa học: bao gồm những tư duy cơ bản nhất về phương pháp khoa học và tự do học thuật, những kiến thức cơ bản về nghiên cứu khoa học và môi trường khoa học ở bậc cao (đại học, viện nghiên cứu,..);
  • Kỹ năng khoa học: các kỹ năng mềm cho nghiên cứu khoa học, các kỹ năng trình bày khoa học và viết bài báo khoa học, tiếng Anh cho học thuật;
  • Đạo đức khoa học và vấn đề đạo văn, trích dẫn;
  • Du học nước ngoài và học bổng du học;

Bây giờ là việc tìm kiếm những người dạy Trường hè. Trên thực tế thì kiếm một người dạy không hề khó, nhưng những người dạy thực sự tạo nên sự khác biệt không hề dễ dàng. Ba chúng tôi muốn một lớp học khác hoàn toàn với những lớp học truyền thống ở Việt Nam, và có dáng dấp hiện đại như những khóa học “summer school” mà chúng tôi từng theo học ở nước ngoài. Đó là một lớp học truyền cảm hứng thực sự, không phải là lớp học thầy đọc trò chép, hay trò ngồi im ngoan ngoãn uống từng lời của thầy giáo, mà là một lớp học đầy ắp không khí thảo luận, đầy ắp sự nghi ngờ, đầy ắp sự tìm tòi và khám phá. Vì thế, người dạy phải là những người có khả năng truyền cảm hứng thật sự, vừa trẻ trung và phải đã từng làm khoa học đích thực. Mảng tiếng Anh cho học thuật, tôi may mắn mời được cô Hồ Huyền, cô giáo cũ của tôi ở ĐHKHTN, ngoài ra Hưng mời thêm hai nhân vật trẻ khác là Phạm Thái Sơn và Ngô Đức Thành. Vậy là có tất cả 6 giảng viên của Trường hè kỳ đầu tiên cùng truyền cảm hứng cho sinh viên và cùng làm nên thành công ngoài mong đợi.

(Còn nữa)

James Clerk Maxwell – Einstein của Scotland

Nếu như hỏi người dân Anh và phần đông nhân loại rằng ai là nhà vật lý người Anh vĩ đại nhất thì chắc hẳn phần đông sẽ trả lời là Isaac Newton. Nếu hỏi tiếp rằng sau Newton là ai? Có thể sẽ là Stephen Hawking, Michael Faraday,… Vương quốc Anh là một cái nôi khoa học kỹ thuật của nhân loại, nơi đã sản sinh ra nhiều nhà vật lý học vĩ đại mà tên tuổi của họ được ghi vào sách giáo khoa và được số đông nhân loại biết đến, mà điển hình như Isaac Newton, Michael Faraday, hay Stephen Hawking được nhắc ở trên. Nhưng cũng có những nhà vật lý vĩ đại với những đóng góp có thể sánh ngang với Newton, Einstein nhưng tên tuổi của họ lại không được nhiều công chúng biết đến. James Clerk Maxwell là một nhà khoa học như thế. Công trình của ông về lý thuyết trường điện từ ra đời cách đây hơn 150 năm có tầm vóc sánh ngang với Lý thuyết Tương đối của Albert Einstein, hay các định luật cơ học của Newton và đến nay vẫn là một trụ cột của vật lý học hiện đại. Nhưng Maxwell không được nhiều công chúng nhắc tới như Einstein, Newton.

1. Tuổi thơ đầy sóng gió

James Clerk Maxwell chào đời cách đây đúng 185 năm, vào ngày 13 tháng 6 năm 1831 trong căn nhà số 14, phố India ở thành phố Edinburgh, thủ phủ xứ Scotland trong Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ailen. Cha của ông, là John Clerk, đã thêm họ Maxwell để đáp ứng một số điều kiện pháp lý cho phép ông được thừa hưởng một mảnh đất ở vùng nông thôn Middlebie, Galloway (Tây nam Scotland). John Clerk Maxwell là một người nhạy cảm, và thận trọng. Ông kết hôn với bà Frances Cay, người mà tính cách cũng như ông, nhưng kiên quyết và thẳng thắn hơn. Tính cách của họ là bổ sung cho nhau, và James, người con trai duy nhất của họ đã may mắn được thừa hưởng một số điểm tốt của cả cha lẫn mẹ.  Họ xây dựng một trang trại nhỏ ở Middlebie và gọi tên là Glenlair (trong tiếng địa phương Scotland có nghĩa là “thung lũng Lair”). Maxwell thực sự yêu mến căn nhà này vì nó là nơi ông giành toàn bộ tuổi thơ cũng như cuộc sống “ẩn dật tự do” sau này. Khi Maxwell lên 8 tuổi, cuộc sống bình dị của gia đình ông tại Glenlair bị phá vỡ bởi cái chết đau đớn của mẹ ông ở tuổi 48 do ung thư dạ dày mà sau này chính Maxell cũng mắc phải khiến ông cũng mất ở khi còn trẻ ở độ tuổi tương tự. Thái độ của ông trước nỗi đau này khác hẳn với những mất mát to lớn trong lòng của ông “ Tôi vui vì giờ đây mẹ tôi sẽ không còn phải chịu thêm cơn đau nào nữa”.[1]

Glenlair, nơi gia đình James Clerk Maxwell từng sinh sống (ảnh chụp từ Wikipedia.org).

John Clerk Maxwell là một người cha yêu con, nhưng cái chết của người vợ dường như khiến ông đau buồn đến độ quên hết những việc cần làm để dạy con trai mình. Ông giao hết việc dạy dỗ cậu bé James cho một gia sư có lối giáo dục cứng rắn và tẻ nhạt. Lewis Campbell, người viết tiểu sử của Maxwell từng mô tả là lối giáo dục khắc nghiệt của vị gia sư này cũng có một phần tích cực đối với Maxwell khi nó rèn luyện cho ông một tâm lý “không ngại đắng cay”. Cuộc đời của cậu bé James chỉ thay đổi khi dì ruột của ông, bà Jan Cay chứng kiến việc dạy dỗ của vị gia sư khắc nghiệt, và thuyết phục được ông bố thay đổi ý định, gửi James tới sống cùng gia đình bà ở Edinburgh, và theo học Học viện Edinburgh.[2]

 2. Học viện Edinburgh và công trình toán học đầu tiên

Những trải nghiệm đầu tiên của Jame ở học viện không mấy vui vẻ đối với James. Cậu bé James luôn xuất hiện với một bộ đồ cũ có dáng dấp thôn quê kèm với giọng nói vùng Gallovidian đã làm ông trở thành tầm ngắm cho những nhóm bạn hay trêu trọc ở trường học. Những cậu bạn tinh nghịch hay chọc phá ông đã đặt cho ông một biệt danh mới là “Drafty” có nghĩa là “kì quặc đến mức ngớ ngẩn” hay là “kẻ lập dị’’ theo ngôn ngữ hiện đại ngày nay. Học viện đã làm chút ít cho việc chinh phục tâm hồn và cỗ vũ cho những việc làm sáng tạo của ông. Ông đã kết thân với một số người trong đó có Lewis Campbell người sau này viết tiểu sử của ông và Peter Guthrie Tait người sau này là giáo sư triết học tự nhiên của Viện Đại học Edinburgh.

Học viện Edinburgh, ngôi trường Maxwell theo học khi còn nhỏ (ảnh từ Wikipedia.org).

Vào thời đại của Maxwell, Scotland có một thần đồng là William Thomson, người được biết đến sau này là Huân tước Kelvin nhờ nhứng đóng góp vĩ đại cho vật lý học và phát triển kỹ thuật ở Scotland. Khác với Thomson, Maxwell không phải là một thần đồng, cũng không có dấu hiệu sớm nào của một thiên tài toán học. Nhưng người ta tin rằng Maxwell có một người cha nhạy bén là John Clerk Maxwell, người luôn nhiệt tình khuyến khích con mình các vấn đề của khoa học và kỹ thuật là điểm tốt cho sự phát triển tài năng của con trai mình. Hai cha con Maxwell thường tham dự các cuộc họp của Hiệp hội Nghệ thuật Edinburgh và Hội Hoàng gia Edinburgh.[3] Ở tuổi 14, với những ý tưởng hình học xuất hiện trong đầu, Maxwell đã viết một bài báo mô tả phương pháp để xây dựng hình ellipse. John Cleck Maxwell đã nhìn thấy công trình của con trai mình giống với chủ đề mà Jame Forbes – một giáo sư triết học tự nhiên ở Edinburgh đang theo đuổi và đã nói chuyện với Forbes. Forber cho rằng phương pháp “rất đáng chú ý trong nhiều năm qua” và thông báo bài báo cho Hội Hoàng gia Edinburgh. Và đây là chìa khóa khai mở sự nghiệp khoa học của cậu bé James. Jame Forbes đã mời Maxwell cùng tham gia nghiên cứu với mình ở Đại học Edinburgh, cùng với cả một giáo sư khác là William Hamilton. Hamilton và Forbes là hai đối thủ trong các cuộc tranh luận khoa học nảy lửa, nhưng đều có chung một quan điểm rằng rằng James là một đứa trẻ xứng đáng đặc biệt quan tâm. Forbes đã giúp ông trong phòng thí nghiệm còn Hamilton giúp về toán học và ảnh hưởng của họ đối với Maxwell là rất lớn cho đến mãi sau này.

3. Sinh viên xuất sắc và lập dị ở Cambridge

Năm 1850, Maxwell tới Cambridge và theo học ở Trinity College dưới sự hướng dẫn của William Hopkins. Ở Cambridge, Maxwell vẫn bị coi là người có tính cách lập dị, nhưng dường như đó lại là một lợi thế cho ông. Campbell viết:

Ông đã thử một số thí nghiệm kỳ quặc trong việc sắp xếp thời gian làm việc và ngủ. Từ 2 giờ đến 2 rưỡi sáng, ông dậy tập thể dục bằng cách chạy dọc hành làng, xuống cầu thang, đi dọc hành lang dưới, đi lên thang và tiếp tục như vậy cho đến khi những người sống cùng dãy hành lang tỉnh dậy, nấp sau cánh cửa để ném cho ông một loạt nào giày, bàn chải tóc,… mỗi khi ông chạy qua”.

James Clerk Maxwell khi theo học ở Trinity College, Cambridge (ảnh từ Wikipedia.org).

Tais thì viết về những trò hài hước khác của Maxwell:

“Ông ta từng đứng trên những giá gỗ trong nhà tắm chung, buông người rơi sấp trong bồn nước, lặn ngang bể để sang giá gỗ bên kia, đổ ngửa cả người xuống nước. Ông nói rằng nó kích thích tuần hoàn máu”.

Với nỗ lực tuyệt vời và tài năng toán học, James đã vị trí Wrangler hạng hai trong kỳ tốt nghiệp truyền thống ở Cambridge vào năm 1854.[4] Hopkins nói về cậu học trò Maxwell của mình rằng “anh ta là một người đàn ông phi thường chẳng có gì phải nghi ngờ, trong suốt cuộc đời dạy học của tôi”.

4. Nhà nghiên cứu xuất sắc và một giáo viên tồi

Thành tích xuất sắc của Maxwell ở kỳ thi tốt nghiệp đã đem lại cho ông học bổng và một vị trí nghiên cứu tại Trinity College. Trong suốt thời gian thanh bình này, ông bắt đầu các nghiên cứu về điện từ và yêu cô em họ tuổi teen Elizabeth Cay, “một thiếu nữ xinh đẹp và thông minh tuyệt vời” như theo lời mô tả của Everitt. Tuy nhiên sự lãng mạn không kéo dài bởi vì những quan ngại của gia đình về việc “những hiểm họa của quan hệ cận huyết trong một dòng họ thuần chủng”. Trong hai năm đó, Maxwell đã xây dựng phương pháp chụp ảnh màu đầu tiên bằng cách sử dụng các màu sắc cơ bản. Hai năm sau, ông nhận vị trí giáo sư triết học tự nhiên ở Marischal College,[5] Aberdeen, Scotland vì mong muốn được sống gần cha ông khi mà sức khỏe của ông John Clerk Maxwell ngày càng tệ. Nhưng khi James nhận được thông báo bổ nhiệm vị trí giáo sư (năm 1856) cũng là lúc cha ông, ngài John Clerk Maxwell qua đời.

Trái ngược với phong cách của một nhà khoa học xuất chúng, Maxwell lại không phải là một thầy giáo giỏi. Dù chuẩn bị bài giảng một cách cực kỳ tỉ mỉ, nhưng giờ học của Maxwell lại luôn vô cùng tẻ nhạt và không mấy thu hút sinh viên vì lối giảng vòng vo, rối rắm và khó hiểu. David Gill, một nhà thiên văn học tài năng của Scotland, người từng là sinh viên của Maxwell ở Marischal College, vẫn luôn ấn tượng về Maxwell:

Các bài giảng của Maxwell, như thường lệ, hầu hết được viết và sắp xếp một cách rất cẩn thận và tỉ mỉ trong một mẫu vừa với các bản in và thường được phép sao chép thoải mái. Trong khi giảng bài ông lại thường bắt đầu bằng việc đọc bản thảo, nhưng sau đó năm phút thì hết hoặc là dừng lại và chú thích: “Có lẽ tôi nên giải thích chỗ này”, và sau đó ông lòng vòng với những ý tưởng vừa hiện lên trong đầu, hay vừa nghĩ ra khi mà ông vừa viết kín cả bảng với những hình vẽ, biểu tượng, hay những nội dung vượt qua khả năng hiểu biết của chúng tôi. Rồi ông lại trở lại với bản thảo, thì lúc này giờ giảng cũng gần như hết và người nhắc giờ xuất hiện, hoặc là phải tiếp tục vào ngày hôm khác. Thỉnh thoảng cũng có một số minh họa thí nghiệm, nhưng chúng thường thất bại, cho thấy rằng Clerk Maxwell không phải là một giáo sư giỏi. Nhưng Maxwell cực kỳ cao hứng  với những người chỉ cần nắm bắt được một vài ý tưởng mà ông vạch ra trên bảng trong các bài giảng, hoặc khi chuyện phiếm với ông sau bài giảng.”

Ảnh mầu đầu tiên trên thế giới được tạo ra bởi Maxwell (ảnh Wikipedia.org).

Có lẽ vì lý do này mà Marischal College không mấy mặn mà trong việc tiếp tục hợp đồng với Maxwell mặc dù ông từng được trao giải thưởng Adam Prize năm 1859 cho công trình nghiên cứu về vành đai của sao Thổ. Maxwell đã chứng minh bằng lý thuyết vành đai tuyệt đẹp bao quanh sao Thổ là các thiên thạch và phải rất lâu sau nhân loại với chứng minh được dự đoán này của ông. Nhưng có lé những nghiên cứu xuất sắc của ông không thuyết phục được lãnh đạo Marischal College tiếp tục hợp đồng với ông, và hợp đồng của ông với Marischal College chấm dứt khi trường này sáp nhập với King College để trở thành Viện Đại học Aberdeen vào năm 1860.

5. London và lý thuyết trường điện từ

Thế nhưng lãnh đại của King College London lại có cách nhìn khác đối với Maxwell. Họ đã mời Maxwell một vị trí giáo sư mà không đặt gánh nặng giảng dạy cho Maxwell và đây có lẽ là quyết định tuyệt vời nhất của lãnh đạo nhà trường. Năm năm ở London của Maxwell là những năm tuyệt vời và sáng tạo nhất trong suốt cuộc đời ông Tại đây, Maxwell tiếp tục các nghiên cứu về điện từ, và năm 1861 đã lần đầu tiên trình diễn phương pháp tạo ảnh màu ngay trong bài giảng “On the Theory of Colour Vision” trước công chúng của Royal Institution.[6] Công trình này của ông được ghi nhận bằng Huy chương Rumford được trao bởi Hiệp hội Hoàng gia London,[7] và ông được chính thức bầu làm Viện sĩ của Hiệp hội này. Tuyệt vời hơn, chỉ trong vòng năm năm làm việc tại đây, Maxwell đã hoàn thành lý thuyết về trường điện từ, đóng góp vĩ đại nhất của ông cho nhân loại.

Công trình này của Maxwell được truyền cảm hứng từ những nghiên cứu thực nghiệm về các hiện tượng điện từ của Michael Faraday, William Thomson, John Kerr. Năm 1855, ông xuất bản công trình đầu tiên về lý thuyết các đường sức từ trên tạp chí khoa học của Viện Đại học Cambridge khi còn làm việc ở Trinity College. Khi tới London, ông đã tiếp tục hoàn thiện công trình này và xuất bản công trình hoàn thiện mang tên “On physical lines of forces” (Về các đường sức vật lý) xuất bản trên tạp chí Philosophical Magazine vào năm 1861.[8] Công trình này nêu lên mối quan hệ giữa từ trường xoáy và dòng điện dịch xuất hiện, giúp cho việc giải thích các hiện tượng cảm ứng điện từ một cách bản chất nhất. Bài báo nổi tiếng nhất của Maxwell được xuất bản vào năm 1865,[9] mang tên “A dynamical theory of electromagnetic field” (Lý thuyết động học của trường điện từ) mô tả toàn bộ quan hệ giữa các thành phần từ trường, điện trường của trường điện từ, cũng như sự hình thành các sóng điện từ và đưa ra cách tính tốc độ truyền sóng điện từ mà sau này thực nghiệm đã chứng minh tính đúng đắn của nó. Có thể nói rằng các công trình của Maxwell, mà ngày nay nhân loại tổng kết thành 4 phương trình Maxwell mô tả toàn bộ mối quan hệ giữa điện từ trường, trường điện từ, sóng điện tử và là nền tảng cho vật lý học ngày nay. Lý thuyết của Maxwell lần đầu tiên được kiểm chứng hơn 20 năm sau khi Maxwell công bố (1887) bởi nhà vật lý học trẻ yểu mệnh người Đức, Heinrich Hertz,[10] bằng thí nghiệm mô tả sự hình thành và ghi nhận sóng điện từ. Các phương trình của Maxwell được Albert Einstein sử dụng như những nền tảng cho lý thuyết tương đối của ông. Nhà vật lý học Richard Feynman đã nói về Maxwell rằng: “Nhìn vào lịch sử loài người thì có lẽ 10 ngàn năm nữa cũng không có gì phải nghi ngờ rằng phát hiện của Maxwell về lý thuyết điện từ là sự kiện quan trọng nhất thế kỷ 19”. Các nhà vật lý đều nhìn nhận tầm quan trọng của công trình của Maxwell có thể sánh ngang với lý thuyết tương đối của Einstein hay các công trình cơ học của Newton. Nó không chỉ làm nền tảng cho công nghệ truyền thông bằng sóng điện từ mà còn là một trụ cột không thể thiếu của vật lý hiện đại.

6. Một nhà bác học tự do và ẩn dật

Maxwell là một con người có tâm hồn tự do và thích cuộc sống bình dị. Sau khi công bố lý thuyết trường điện từ, ông cho rằng để tiếp tục công việc nghiên cứu của mình (vốn dựa nhiều vào tính toán lý thuyết), ông cũng chẳng cần đến một vị trí khoa bảng nào như những công việc chẳng hợp với ông chút nào mà ông vẫn phải làm. Ông có những suy nghĩ hết sức độc lập một cách thoải mái và có tất cả những mối liên hệ trong giới học thuật mà ông cần đến để có thể trao đổi những phát kiến mà ông tìm được trong thế giới khoa học. Tất cả những gì ông cần đến là thời gian và sự tự do như ở Glenlair, “để được đi dạo trên những cánh đồng và kết bạn với những chú ếch nhỏ hay những con chuột nước già” như ông đã làm trước đây. Vì thế, năm 1865, ông đã xin từ chức vụ giáo sư ở King College và trở về sống là Glenlair. Campell đã mô tả những tháng ngày vui vẻ của Maxwell ở Glenlair:

Kể từ lúc đó và về sau, bài thể dục mà ông và vợ ông yêu thích nhất là cưỡi ngựa bởi ông có khả năng nhất trong môn này. Một người hàng xóm có nhớ lại là vào năm 1874, trên lưng một chú ngựa đen tên là Dizzy, nỗi thất vọng lớn của những người chủ trước, ông đã điều khiển chú chạy vòng tròn trong sự thích thú của bọn trẻ ở Kilquhanity, ném qua và bắt lại cái roi da, nhảy qua các rào,..

Phần đáng kể của những buổi tối là giành cho Chaucer, Spenser, Milton hay một vở kịch của Shakespears mà ông đọc to cho vợ mình nghe. Vào ngày chủ nhật, sau khi ở nhà thờ về, ông sẽ giam mình trong công việc của một con chiên già. Đối với thần học, sự đồng cảm của ông phần lớn đã đi qua trong quá khứ giống như văn học. Ông có quan hệ rất tốt với láng giềng và đặc biệt là bọn trẻ. Ông giành nhiều thời gian thăm hỏi những người bệnh trong làng, đọc kinh và cầu nguyện cùng với họ trong những lúc họ cần sự cứu giúp. Những người tới thăm Glenlair giữa thời gian từ 1865 tới 1869 đặc biệt quen thuộc với những lời cầu nguyện được tiến hành bởi người chủ nhà. Lời cầu nguyện dường như ngay lập tức gây ấn tượng mạnh bởi ý nghĩa của chúng. Maxwell giờ là một điền chủ, vai trò mà ông rất thích.

James Clerk Maxwell và vợ, bà Katherine Maxwell khi ở Glenlair năm 1869 (ảnh từ Wikipedia.org).

7. Những năm cuối đời ở Cambridge

Nhưng rồi cuộc sống ẩn dật của Maxwell cũng không kéo dài được lâu khi Viện Đại học Cambridge thành lập Phòng thí nghiệm Cavendish và sẽ bổ nhiệm một vị trí giáo sư thực nghiệm mang tên “Giáo sư Cavendish”.[11] Cambridge đã nhận ra khá chậm rằng họ đã đi sau các trường đại học ở Scotland và Đức, và thậm chí cả Oxford, trong đào tạo khoa học nên cần khẩn cấp xây dựng các phòng thí nghiệm cho sinh viên và các nhà nghiên cứu. Hiệu trưởng danh dự của trường, công tước vùng Devonshire, William Cavendish, đã hào phóng hiến tặng cho trường một khoản để mở một phòng thí nghiệm mới. William Cavendish, chính là hậu duệ của nhà vật lý, hóa học quý tộc ẩn dật ở thế kỷ 18, Henry Cavendish, người đã tiến hành những thí nghiệm tiên phong về điện và lực hấp dẫn. Ban đầu người ta mời William Thomson vào vị trí này, nhưng Thomson đã giành tâm huyết ở Đại học Glasgow và không nghĩ đến chuyện rời khỏi đó. Thomson liền được nhờ đánh tiếng với Helmholtz nhưng cũng thất bại, Helmholtz vừa được bổ nhiệm làm giáo sư vật lý ở Berlin và giám đốc viện vật lý mới thành lập. Và sự lựa chọn thứ 3 là Maxwell, một nhà nghiên cứu tự do và ẩn dật ở Glenlair. Maxwell không thể từ chối nổi trách nhiệm này nhưng chấp nhận ngồi vào ghế giáo sư Cavendish với điều kiện ông có thể đổi ý vào cuối năm đầu tiên, và ông bắt đầu công việc ở Cambridge từ năm 1871.

Lúc này Maxwell lại chứng tỏ vai trò của một nhà vật lý thực nghiệm xuất sắc khi ông đặt những viên gạch đầu tiên để Cavendish trở thành một trung tâm nghiên cứu vật lý đứng đầu thế giới với việc thiết lập các phòng thí nghiệm, hoàn thiện các nghiên cứu về chất khí, về phép đo trọng lực, và phát triển nghiên cứu về thống kê phân tử khí. Maxwell giờ đây đã có các nghiên cứu sinh và nhóm nghiên cứu, nhưng phong cách của ông không phải là cố ép họ vào một nhóm bình thường. Một trong những sinh viên đầu tiên của Cavendish, Arthur Schuster, đã mô tả lại quan điểm của Maxwell là: “tốt nhất cho cả sự phát triển của khoa học và đào tạo những bộ óc của sinh viên, là mỗi người nên theo đuổi con đường riêng của mình…Tôi chẳng bao giờ cố gắng ngăn một chàng trai thử làm một thí nghiệm nếu như anh ta chưa tìm thấy những gì mà anh ấy muốn, và anh ấy có thể tìm thấy một thứ gì trong đó”. Tuy nhiên, Maxwell vẫn chẳng có chút cải thiện về khả năng giảng dạy khi các bài giảng của ông vẫn không thu hút được mấy sinh viên theo học. Cùng với Newton và một số nhà khoa học vĩ đại khác ở Cambridge, Maxwell được xếp vào nhóm “giáo sư của bốn bức tường” vì lớp học của họ vắng tanh.

Nhưng số phận không quá ưu ái với nhà vật lý vĩ đại. Mới 48 tuổi, Maxwell cũng mắc căn bệnh ung thư dạ dày giống mẹ ông và qua đời vào năm 1879 (ngày 5 tháng 11) khi vẫn đang nỗ lực đặt những viên gạch đầu tiên phát triển Phòng thí nghiệm Cavendish ở Cambridge. Maxwell ra đi một cách thanh thản với một lời để lại cho các đồng nghiệp Cambridge: “Tôi đã suy nghĩ một cách nhẹ nhàng về những gì tôi luôn gặp phải. Tôi cũng chưa từng làm điều gì mãnh liệt trong cả cuộc đời. Mong muốn duy nhất của tôi là có thể được như David để phục vụ mọi người theo ý nguyện của Thiên Chúa và rồi yên nghỉ.” Maxwell được chôn cất ở Parton Kirk, gần với Glenlair nơi ông đã lớn nên. Ra đi khi còn trẻ cộng với bản tính tự do, khiêm tốn, không thích ồn ào khiến những đóng góp vĩ đại của ông ít được công chúng ngoài ngành biết đến. Nhưng điều đó không hề giảm đi sự vĩ đại của James Clerk Maxwell, người được mệnh danh là Einstein của Scotland.

[1] Bài viết này sử dụng tư liệu được trích từ cuốn “Great Physicists, The Life and Times of leading physicists from Galieo to Hawking” của tác giả William H. Gropper (NXB Viện Đại học Oxford, 2001)

[2] Edinburgh Academy, một học viện tư thục dạy trẻ từ 2 đến 18 tuổi được thành lập năm 1824 ở thành phố Edinburgh

[3] Royal Society of Edinburgh, Hàn lâm Viện Quốc gia Scotland, được thành lập từ năm 1783.

[4] Wrangler là danh hiệu giành cho những sinh viên tốt nghiệp đại học (First class Honour) xuất sắc nhất về toán học ở Viện Đại học Cambridge. Đây là một truyền thống có từ năm 1740, người đứng đầu gọi là Senior Wrangler, thứ hai là Second Wrangler. Ví dụ như Thủ tướng Singapore, ông Lý Hiển Long từng giành danh hiệu này năm 1973.

[5] Ngôi trường này sau này được sáp nhập vào Viện Đại học Aberdeen.

[6] Royal Institution of Great Britain, một học viện phát triển khoa học và giáo dục ở London, được thành lập năm 1799, là nơi nổi tiếng với các bài giảng khoa học đại chúng và các phòng thí nghiệm hóa học.

[7] Royal Society (thành lập năm 1660), Hiệp hội tương đương với Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia của Vương quốc Anh, và là viện hàn lâm khoa học đầu tiên trên thế giới.

[8] J. C. Maxwell, “On physical lines of force”, Philosophical Magazine (Taylor & Francis) 90, 11–23 (1861).

[9] J. C. Maxwell, “A dynamical theory of the electromagnetic field”, Philosophical Transactions of the Royal Society of London 155, 459–512 (1865).

[10] Heinrich Herzt, một giáo sư vật lý ở Đại học Karlsruhe (nay là Học viện Công nghệ Karlsruhe, Đức), sinh năm 1857, mất khi mới chỉ 36 tuổi do bị ung thư máu. Ông chứng minh lý thuyết Maxwell năm 1887 bằng thí nghiệm tạo và ghi nhận sóng điện từ. Cuộc đời của Hertz là một cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy oanh liệt trong khoa học.

[11] Xem bài viết “Joseph John Thomson và những di sản khoa học ở Phòng thí nghiệm Cavendish” của cùng tác giả đăng trên Tia sáng, số ra ngày 27/1/2014 http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=111&CategoryID=2&News=7193

Tư duy an toàn

nmnhatTôi quyết định viết bài viết khi đọc lại dòng chia sẻ của anh rể tôi trên Facebook: kỷ niệm 10 năm ngày cưới của anh chị, và nó cũng đánh dấu gần 10 năm anh rể tôi phải cố gắng sống với cuộc sống của một người tàn tật sau một tai nạn xe máy xảy ra không lâu sau đám cưới của anh chị tôi. Không cần kể thêm, chắc chắn ai cũng hiểu cuộc sống của anh tôi và gia đình anh khổ thế nào khi 10 năm nay anh phải gắn mình với chiếc xe lăn với đôi tay yếu ớt. Dịp này đúng 10 năm về trước, khi đang lái xe máy trên cao tốc Thăng Long – Nội Bài lên sân bay Nội Bài đón vợ về quê nghỉ lễ 30/4, anh tôi vừa phóng xe vừa móc điện thoại ra gọi vợ chuẩn bị ra cửa để anh đón về quê. Chỉ một tích tắc mải nghe điện thoại, anh tôi đâm thẳng chiếc xe vào đuôi một xe tải đang lùi trên cao tốc. Va chạm mạnh khiến anh bị vỡ đốt sống cổ, tổn thương tủy sống. Chiếc mũ bảo hiểm giúp anh may mắn giữ được mạng sống, nhưng chấn thương không thể hồi phục và anh tôi phải chấp nhận cuộc sống với nửa thân mình bị liệt trên chiếc xe lăn, đôi tay cũng rất yếu ớt. Cho đến bây giờ, có lúc gia đình chúng tôi có lúc trách sự thiếu sáng suốt của bác sĩ bệnh viện khi điều trị chấn thương của anh, nhưng tất cả (kể cả anh tôi) đều thừa nhận một thực tế rằng nguyên nhân chủ quan của tình trạng này là do anh tôi bất cẩn khi lái xe, và anh tôi luôn dùng mình như một tấm  gương để nhắc mọi người xung quanh lái xe cẩn thận. Tôi cũng quả quyết post bài này khi đọc lại tin tức chỉ trong một kỳ nghỉ tết, có tới hơn 300 người chết tức là mỗi ngày có tới hơn 30 người thiệt mạng vì tai nạn giao thông, và lại một kỳ nghỉ dài 30/4, 1/5 đang đến với nhiều nguy cơ tai nạn rình rập hàng triệu người Việt Nam. Chắc chắn không ai muốn thảm họa với bản thân và người thân của mình, nhưng hãy bớt chút thời gian đọc bài viết này để cảnh tỉnh bản thân mình.

Anh tôi cũng như rất rất nhiều người Việt Nam vẫn hàng ngày hàng giờ có cách hành xử như thế khi tham gia giao thông: sử dụng điện thoại khi lái xe cùng với vô số những thói quen rất không an toàn khác như tùy tiện lạng lách, tranh đường,… Nhiều người cả trẻ lẫn già, cả nam lẫn nữ thản nhiên phóng xe máy vun vút, một tay cầm di động úp vào tai nói chuyện rôm rả, thậm chí còn vừa phóng xe vừa nhắn tin. Tôi từng giật mình khi đi ôtô cùng cả gia đình tôi, không một ai trên xe cài dây an toàn, kể cả người lái xe, cùng các em bé, và người lái xe thoải mái gọi, nghe điện thoại buôn chuyện hồn nhiên như đang ngồi trong nhà. Khi tôi phàn nàn điều này thì ai cũng cười tôi là mắc bệnh Tây hóa, sống ở nước ngoài về gì cũng chê, cái gì cũng sợ. Nhưng có một sự thật hiển nhiên rằng chiếc ôtô đang phóng nhanh với tốc độ 80 km/h nếu gặp một biến cố xấu trước mặt buộc phải phanh gấp thì tất cả mọi người trên xe sẽ bị va đập mạnh có thể dẫn tới những chấn thương rất nghiêm trọng. Khi xe đi với tốc độ lớn hơn, một khi có va chạm xảy ra, túi không khí trong xe cũng không đảm bảo cho người ngồi trên xe giữ được mạng sống, nhưng thiệt hại sẽ giảm đi đáng kể nếu người ngồi trên xe có thắt dây an toàn. Có lẽ đây là một thói quen vô cùng phổ biến trong những người lái xe ôtô ở Việt Nam, và thậm chí người dạy lái xe không hề nhắc nhở người học cài dây an toàn. Tôi từng chứng kiến ở trường thi lái xe Xuân Mai (Hòa Bình), rất nhiều người mất điểm ngay lập tức khi vừa cho xe lăn bánh xuất phát vì quên cả cài dây an toàn khi thi thực hành do không hề có thói quen này khi tập lái xe. Hàng ngày trên mạng xã hội, tôi vẫn thấy rất nhiều bạn bè tôi khoe ảnh gia đình lái xe trên Facebook, không một ai cài dây an toàn. Dây an toàn trên ôtô chỉ mất vài dây để cài và không hề gây khó chịu, nhưng lại là một thiết bị đơn giản bảo vệ người ngồi trên xe. Ở các nước phát triển, người ngồi trên xe sẽ bị phạt khi không thắt dây an toàn và nếu trẻ nhỏ không cài dây an toàn thì người lớn đi kèm sẽ bị phạt. Người ta còn quy định trẻ ở độ tuổi nhỏ (khoảng dưới 3-4 tuổi) sẽ phải được trang bị thêm một ghế riêng vừa với kích thước cơ thể, và ghế này cũng có dây an toàn, đồng thời được thắt chặt vào ghế xe bằng dây an toàn của xe. Những thói quen như thế được rèn luyện từ rất bé nên hầu như bất kỳ ai ngồi lên ôtô cũng tự mình cài dây an toàn, còn chúng ta thì ngược lại, trẻ con khi cùng cha mẹ lên ôtô không được cài dây an toàn, và chính cha mẹ chúng cũng không hề làm vậy để làm gương nên cũng thành một thói quen được rèn luyện từ bé: quên luôn việc giữ an toàn cho chính bản thân mình. Không phải tự nhiên người ta thiết kế dây an toàn trên ôtô, và không phải tự nhiên pháp luật quy định người ngồi trên xe phải cài dây an toàn, không được sử dụng điện thoại di động khi lái xe. Tôi nhận ra một điều “thú vị” rằng khi học lái xe ở Việt Nam, thầy dạy lái xe otô thường bảo là “lái xe là phải liều”, và “đi đường là phải tranh đường”, còn ở phương Tây thì người ta dạy ngược lại “lái xe phải biết sợ”, và “lái xe quy tắc đầu tiên là nhường đường”. “Sợ” vì sơ xuất khi lái xe có thể gây tai nạn chết người, “nhường đường” là cách lưu thông đảm bảo an toàn, giảm thiểu nguy cơ va chạm và cũng bớt ùn tắc.

Đã ai nhìn thấy hình ảnh như thế này ở Việt Nam: bà mẹ đèo con trên chiếc xe đạp, cậu bé ngồi ngay ngắn trên ghế xe được thiết ké an toàn, có dây bảo hiểm, và mũ bảo hiểm. Đây là cách mà các ông bố bà mẹ phương tây (hay Đan mạch nói riêng) đèo con mình trên xe.

Ở Đan Mạch, nơi mọi người dân rất thích dùng xe đạp, hình ảnh một người cha người mẹ đèo con nhỏ tới trường, đi chơi là vô cùng phổ biến, nhưng sẽ vô cùng hiếm gặp ai đó ôm con mình trong lòng phóng xe, hay đặt con mình trực tiếp đằng sau yên mà không có dụng cụ an toàn. Ở đây, bạn chỉ được phép đèo trẻ nhỏ với ghế chuyên dụng được gắn chắc chắn vào xe, có vành bảo vệ đảm bảo trẻ không thể bị kẹt chân vào bánh, có ghế dựa, kèm với dây an toàn chắc chắn để đảm bảo an toàn cho trẻ. Và một điều chắc chắn là bạn sẽ bị phạt nếu không tuân thủ quy tắc đó, nhưng cũng có một điều chắc chắn là không ai cố tình vi phạm vì một điều đơn giản, điều đó có thể gây nguy hiểm cho chính trẻ nhỏ của họ. Ở nước ta nhiều cha mẹ bức xúc vì kiểu thiết kế xe máy, xe đạp có thể khiến con mình ngồi sau thò chân vào bánh xe, bô xe,.. nhưng hình như ít ai nghĩ đến việc cách đèo con như thế nguy cơ cao dẫn tới những tai nạn kiểu như vậy. Tôi vẫn thấy nhiều ông bố bà mẹ một tay lái xe máy, một tay ôm con nhỏ trước ngực và hồn nhiên phóng vun vút trên đường phố đông đúc. Thật may mắn vì những người đó không bị tai nạn, nhưng những ông bố bà mẹ trước khi ôm con như thế có dự tính một tình huống rằng nếu có một việc bất ngờ xảy trước bánh xe khiến họ phải đột ngột phanh gấp, và con nhỏ của họ sẽ có nguy cơ bị văng xuống đường và chắc ai cũng hiểu chuyện khủng khiếp gì có thể xảy ra. Tôi vẫn thường xuyên nhìn thấy nhiều người thản nhiên vượt đèn đỏ trong khi chỉ cần chờ thêm 2-3 giây nữa, đèn xanh sẽ bật lên và họ được lưu thông một cách hợp pháp. Và chính mắt tôi chứng kiến vài lần những người thiếu kiên nhẫn đó bị tai nạn vì va chạm với những người lưu thông ở hướng cắt ngang, những người đang cố tăng tốc chạy chối chết khi đèn giao thông phía họ chuyển từ vàng sang đỏ. Ai cũng yêu con cái của mình, nhưng tại sao ít ai bảo vệ con mình khỏi những nguy cơ tai nạn như vậy, trái lại còn tạo ra nhiều nguy cơ cho con mình, dạy cho con mình thói quen coi thường luật giao thông, coi thường tính mạng và sức khỏe của mình ngay từ nhỏ.

Đây là cách rất thường thấy ở Việt Nam: ai cũng yêu con mình nhưng sẵn sàng đặt con trên xe phóng hồn nhiên bất chấp các nguy hiểm rình rập có thể xảy ra (ảnh từ aFamily).

Những thực tế này xuất phát từ một ý thức không tồn tại trong đầu mỗi con người chúng ta, đó là lối hành xử an toàn, mà trước hết là an toàn cho chính bản thân mình, cho chính những người thân nhất của mình, những người xung quanh trước khi sợ hãi vì sự trừng phạt của pháp luật. Cung cách hành xử không nghĩ đến sự an toàn dẫn đến việc không một ai sợ hãi những nguy cơ chấn thương nghiêm trọng khi tham gia giao thông, khi làm việc. Và cách thức hành xử này rất phổ biến trong chúng ta không chỉ khi tham gia giao thông mà cả trong lao động dẫn tới việc tai nạn lao động xảy ra khá phổ biến. Tôi không có ý định bàn luận về những nguyên nhân sâu xa và nguồn cơn của ý thức thiếu an toàn này, những nó là có thật và đang ngày ngày đóng góp vào những tai nạn cướp đi bao sinh mạng ở Việt Nam. Mỗi người khi tham gia giao thông, khi làm việc, nếu luôn nghĩ trong đầu nếu không may mình bị tai nạn, thì ngoài việc mình là người trực tiếp đầu tiên đau đớn, thì còn có gia đình, người thân của mình sẽ rất khổ sở, và cách đơn giản nhất để giảm thiểu những nguy cơ tai nạn, nguy cơ chấn thương là hãy hành xử, tham gia giao thông một cách an toàn, đúng luật.

Chỉ số sáng tạo quốc gia, văn hóa ngang bằng và mô hình quản lý phẳng

Bảng xếp hạng chỉ số sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index)[1] hẳn vẫn khiến nhiều người Việt Nam chạnh lòng, không chỉ việc Việt Nam đứng ở vị trí thấp trong bảng xếp hạng mà còn ở việc Việt Nam vẫn chỉ ở mức làng nhàng bậc thấp trong ASEAN. Và cũng chẳng mấy ai ngạc nhiên khi những quốc gia như Thụy Sĩ, Anh, Thụy Điển,… đứng đầu bảng xếp hạng về chỉ số sáng tạo toàn cầu, và thường dễ dàng trả lời câu hỏi này: nước giàu thì làm gì chẳng sáng tạo? Nhưng nếu đi sâu hơn về các khía cạnh văn hóa và quản lý thì có thể rút ra một điều thú vị: dường như có một sự liên hệ nào đó giữa văn hóa ngang bằng ở các quốc gia với sự sáng tạo?

  1. Chỉ số khoảng cách sức mạnh (PDI)

Văn hóa ngang bằng” ở đây không đồng nghĩa với “sự bình đẳng trong xã hội” và bài viết này không có ý định phân tích về sự bình đẳng xã hội. Văn hóa ngang bằng liên quan tới sự ngang bằng giao tiếp, quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội và trong tổ chức, và yếu tố này được “lượng hóa” trong lý thuyết “Các chiều văn hóa” của Geert Hofstede, một giáo sư tâm lý học ở Đại học Maastricht, Hà Lan đề ra lần đầu tiên vào năm 1980 và đang được đánh giá cao cho tới ngày nay. Theo lý thuyết này,[2] chỉ số thể hiện sự bất bình đẳng giữa các cá nhân trong tổ chức xã hội và cơ quan được gọi là “chỉ số khoảng cách sức mạnh” (powder distance index, PDI). Nó đại diện cho sự bất bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội (tổng hòa của các yếu tố văn hóa, kinh tế,..), và chỉ số này được lượng hóa thành các con số. Con số càng lớn, sự bất bình đẳng giữa các cá nhân càng lớn. Ví dụ như Hà Lan (quê hương của Hofstede) có chỉ số PDI là 38, so sánh với Arab Saudi (PDI = 80) thì sự bất bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội Hà Lan được cho là thấp hơn của Arab Saudi. Quốc gia có chỉ số PDI thấp thường thể hiện văn hóa đề cao tính cá nhân (sự bình đẳng trong giao tiếp giữa các cá nhân), trong khi chỉ số PDI cao thường thể hiện văn hóa cộng đồng cao (ví dụ như các quốc gia châu Á thường có xu hướng có PDI cao), nơi văn hóa thứ bậc được đề cao.

Hình 1. Tương quan chỉ số sáng tạo toàn cầu (GII) và chỉ số khoảng cách sức mạnh (PDI) so sánh một số quốc gia xếp theo chiều tăng của chỉ số PDI (con số đi kèm với tên quốc gia).
Hình 1. Tương quan chỉ số sáng tạo toàn cầu (GII) và chỉ số khoảng cách sức mạnh (PDI) so sánh một số quốc gia xếp theo chiều tăng của chỉ số PDI (con số đi kèm với tên quốc gia).

Biểu đồ tại hình 1 cho ta thấy một xu hướng khá thú vị trong chỉ số sáng tạo quốc gia (GII) của một số quốc gia trong tương quan với chỉ số PDI khi sắp xếp các quốc gia này theo chiều tăng của chỉ số PDI. Có một xu hướng tương đối rõ là các quốc gia có chỉ số sáng tạo cao thường là các quốc gia có chỉ số PDI thấp (như nhóm Đan Mạch, Áo, Thụy Điển, Anh, Thụy Sĩ,..), còn các quốc gia với chỉ số PDI cao thường đi kèm với chỉ số sáng tạo thấp (điển hình như nhóm quốc gia châu Á trong đó có Việt Nam). So sánh trong khu vực châu Á cũng có kết quả tương tự, các quốc gia có GII cao thường là nơi có chỉ số PDI thấp (những ví dụ tiêu biểu là Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông,..). Điều này hợp với logic phổ biến rằng ở những nền văn hóa nơi tính cách cá nhân được đề cao, tính sáng tạo thường có nhiều cơ hội phát triển hơn. Tất nhiên điều này cũng không hoàn toàn tuyệt đối ở một số trường hợp như Singapore, nơi có chỉ số PDI cao hơn so với nhiều quốc gia Châu Âu (nơi PDI thấp) thì chỉ số GII vẫn trong top 10 quốc gia cao nhất thế giới.

Cấu trúc quản lý phẳng

Lý thuyết các chiều văn hóa của Geert Hofstede nhận được nhiều ý kiến ủng hộ ở nhiều quốc gia, và đặc biệt là các quốc gia Bắc Âu, nơi một mô hình quản lý dựa trên lý thuyết này đang được thịnh hành, mô hình cấu trúc quản lý phẳng “flat structure management” nhằm phát huy tối đa các khả năng của mỗi cá nhân. Trong mô hình này, mọi cá nhân trong tổ chức là bình đẳng, khái niệm “ông chủ”, “lãnh đạo” là không rõ ràng. Thay vào đó, hoạt động của nhóm được tổ chức theo kiểu “tự quản lý” (self management), tự do cá nhân được đề cao, nhưng đồng thời hoạt động theo tinh thần hợp tác cao. Các quyết định, các chính sách được đưa ra thông qua thảo luận công khai và tự do trong nhóm để đi đến sự đồng thuận. Đồng thời, tất cả các cá nhân đều có quyền đề xuất các ý tưởng làm việc và tiến hành hiện thực hóa trên nguyên tắc “thảo luận” và “hợp tác”. Cách thức quản lý này đem tới một không khí làm việc hết sức thoải mái mà lại phát huy năng suất lao động tới mức cao độ. Cùng với mô hình quản lý phẳng là văn hóa làm việc cân bằng giữa cuộc sống gia đình và công việc thông qua cách thức làm việc linh động nhằm tạo điều kiện cho người lao động được giành nhiều thời gian chăm sóc gia đình mình. Giờ làm việc công sở ở Đan Mạch thường bắt đầu lúc 9h sáng và kết thúc vào lúc 16h hàng ngày, nhưng trên thực tế không ai bị bắt buộc phải làm theo giờ hành chính. Những người có con nhỏ thường kết thúc giờ làm khá sớm để giành thời gian cho gia đình, và có một quy ước bất thành văn là không bao giờ bắt đầu một cuộc họp sau 16h vì đó là thời gian người lao động giành cho gia đình. Người lao động Đan Mạch (hay Bắc Âu) thường được giục giã nghỉ phép để thư giãn nếu trong lịch của họ vẫn còn ngày nghỉ phép. Bạn có thể mường tượng người lao động Bắc Âu cảm thấy thoải mái với công việc như thế nào khi trong tiếng Đan Mạch có từ “arbejdsglæde”, không có từ đồng nghĩa trong tiếng Anh. Arbejde có nghĩa là công sở, glæde có nghĩa là sự hạnh phúc, ghép lại có thể tạm hiểu là “hạnh phúc nơi công sở”. Trong khi người lao động tại nhiều nước cảm thấy mệt mỏi giữa việc hoàn thành công việc và chăm sóc gia đình của mình, thì người lao động ở Đan Mạch lại hoàn toàn ngược lại nhờ truyền thống giúp nhân viên cảm thấy thoải mái khi làm việc từ công ty. Sự thoải mái giúp nâng cao năng suất lao động và phát huy tính sáng tạo, điều này lý giải tại sao các nước Bắc Âu thuộc nhóm những quốc gia có năng suất năng suất lao động cao nhất OECD, và chỉ số sáng tạo thuộc nhóm cao nhất thế giới.

Việt Nam học được gì?

Khi tôi nói tới mô hình lao động này, chắc chắn nhiều người sẽ suýt xoa giá mình được làm việc như thế này, và chắc chắn nhiều người sẽ phản đối ngay lập tức nếu áp dụng vào Việt Nam. Lý do là người lao động ở Việt Nam đa phần thiếu ý thức lao động, và tùy tiện. Việc áp dụng “quản lý phẳng” sẽ khiến cho nhiều người tùy tiện bỏ việc, và công sở sẽ bị “bỏ hoang”, sản xuất bị đình đốn. Điều chắc chắn nó không thể áp dụng đại trà ở Việt Nam vì các lý do trên, nhưng ở những môi trường làm việc với những người lao động trình độ cao, liệu có thể áp dụng mô hình phẳng và văn hóa làm việc cân bằng giữa gia đình và công việc. Một điều hiển nhiên hiện nay người lao động tại Việt Nam đang bị sức ép nặng giữa kiếm tiền và chăm sóc gia đình, và nhiều gia đình trẻ phải phó mặc việc chăm sóc và dạy dỗ con cho người giúp việc, vốn là những người có trình độ thấp. Và điều này chắc chắn ảnh hưởng không nhỏ tới thế hệ tương lai của đất nước. Mô hình làm việc kiểu Bắc Âu sẽ phần nào giúp giảm bớt gánh nặng này khi nó được áp dụng trong các môi trường làm việc của những người được đào tạo tốt.

[1] Chỉ số Sáng tạo Toàn cầu (https://www.globalinnovationindex.org), năm 2014, Việt Nam chỉ xếp thứ 71.

[2] Tham khảo chi tiết lý thuyết này trên trang chủ của Geert Hofstede http://geert-hofstede.com/dimensions.html

Tai nạn trên Vietnam’s Got Talent và sử dụng hóa chất nguy hiểm

chemical signsNhững khán giả xem buổi truyền hình trực tiếp trên VTV3 ngày 11/1/2015 chắc hẳn sẽ nuối tiếc cho thí sinh Tấn Phát trong show diễn “Tìm kiếm Tài năng Việt Nam” (Vietnam’s Got Talent) đã biểu diễn không thành công tiết mục uống 5 ly nước để tránh không chọn phải một ly acid. Thí sinh này đã gặp phải tai nạn diễn, vô tình uống nhầm ly acid đã chuẩn bị và tiết mục coi như không thành công, và sau đó theo thông tin trên các trang tin điện tử thì anh này phải đi bệnh viện. Giám khảo Huy Tuấn có viết trên Facebook của mình rằng thật may anh này không bị vấn đề gì nghiêm trọng về sức khỏe. Nhưng có một thực tế nguy hiểm đã xảy ra trên sân khấu: hóa chất nguy hiểm được sử dụng một cách rất tùy tiện mà không có một biện pháp gì kiểm soát nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra với tất cả những người tham gia. Đó cũng là một thực tế không lấy gì làm vui ở Việt Nam: hóa chất không được kiểm soát chặt chẽ.

Ở  các quốc gia phát triển, hóa chất không phải là mặt hàng bán tự do ngoài thị trường, và không được phép sử dụng tùy tiện nhất là nơi công cộng bởi nó có khả năng gây nguy hiểm tới sức khỏe cho những người sử dụng, gây cháy nổ, gây ô nhiễm môi trường. Bạn có thể chỉ trích tổng thống, thủ tướng với nhân danh người làm chủ xã hội, nhưng với việc sử dụng các hóa chất nguy hiểm thì lại không hề “dân chủ” như thế. Chắc chắn không cần kể ra chi tiết ai cũng biết những vụ việc đau lòng do acid gây ra trong các vụ đánh ghen ở Việt Nam (người ta có thể thoải mái mua hàng lít acid sulfuric đặc – loại acid có tính acid cực mạnh và tạt vào mặt nạn nhân để hả cơn ghen), hay những tai nạn cháy nổ khi sử dụng cồn (một hóa chất rất thông thường được dùng rất phổ biến),… Acid nằm trong danh mục các hóa chất nguy hiểm và không được phép mua bán một cách tùy tiện. Ngay trong các phòng thí nghiệm có sử dụng hóa chất, người ta vẫn kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng hóa chất, từ cách thức lưu trữ, cách thức sử dụng, cách thức đổ bỏ, hủy bỏ,.. nhằm giảm thiểu những rủi ro cho sức khỏe và môi trường. Thậm chí bất kỳ ai dùng hóa chất đều phải trải qua một khóa học về an toàn hóa chất. Năm 2013, Khoa Công nghệ, Đại học Quốc gia Singapore (NUS) xảy ra một vụ nổ hóa chất thí nghiệm khiến toàn bộ một nửa trường nằm quanh Khoa Công nghệ (Faculty of Engineering) phải di tản do khói độc tạo ra từ vụ nổ, hai lính cứu hỏa, hai nhân viên an ninh phải đi nhập viện do tác động của lửa cháy và hơi độc. Singapore vốn là nơi kiểm soát rất chặt chẽ sử dụng hóa chất, nên vì thế giám đốc phòng thí nghiệm nơi xảy ra tai nạn ngay lập tức bị cách chức, giáo sư chủ trì ngành buộc phải từ chức. Và tiếp sau đó, NUS yêu cầu toàn bộ các nhà nghiên cứu của Faculty of Engineering phải kiểm tra lại an toàn phòng thí nghiệm, tăng mức độ nghiêm khắc trong các khóa học về an toàn hóa chất và an toàn phòng thí nghiệm. Đây là một ví dụ về sự nguy hiểm nếu sử dụng sai hóa chất và các nước kiểm soát việc sử dụng hóa chất ra sao. Thế nhưng thực tế ở Việt Nam dường như lại ngược lại với thế giới: mua bán, sử dụng hóa chất, kể cả những hóa chất nguy hiểm như acid lại quá dễ dàng, tới mức bất kỳ ai cũng có thể mua và sử dụng một cách tùy tiện, trong khi quá ít người hiểu được những rủi ro và cách kiểm soát, giảm thiểu những rủi ro đó. Đây là nguyên nhân sâu xa của tai nạn trên sóng VTV3 ngày hôm qua.

Trở lại với tiết mục của Tấn Phát trên Vietnam’s Got Talent, mặc dù Tấn Phát may mắn chưa bị tai nạn nghiêm trọng, nhưng có rất nhiều điều cần nói với Ban Tổ chức cũng như các cơ quan chức năng ở Việt Nam về việc quản lý sử dụng hóa chất. Tiết mục của Tấn Phát sử dụng hóa chất nguy hiểm (acid) và thí sinh này cũng biểu diễn ngay tại đó acid này gây nguy hiểm ra sao đối với một vật mẫu, và luôn miệng cảnh báo đây là một biểu diễn cực kỳ nguy hiểm đối với khán giả. Tuy nhiên, chính bản thân thí sinh này lại không có các kiến thức sơ đẳng về kiểm soát các rủi ro khi sử dụng hóa chất: anh này phơi các cốc acid trên sân khấu mà bản thân anh không mang khẩu trang chặn hơi acid, mang bao tay không phải loại dành cho acid, Huy Tuấn và diễn viên trợ giúp đứng xung quanh hoàn toàn không có đồ bảo hộ… Khi anh này bị uống nhầm acid, anh này nhanh miệng nhổ ra (và cả khán giả lẫn Ban Giám khảo đều sợ hãi khi nhìn thấy), rồi uống ly nước khác. Điều này sẽ khiến cho acid theo nước trôi vào dạ dày anh ta và có thể gây nguy hiểm cho dạ dày, đường tiêu hóa,.. Có nghĩa là bản thân Tấn Phát không có phương án đề phòng rủi ro cho bản thân, trong tình huống này, anh ta cần xúc miệng liên tục với nước sạch nhằm pha loãng lượng acid bám trong miệng thay vì uống ly nước vào bụng, sau đó phải ngay lập tức đi đến bác sĩ cấp cứu. Thế nhưng anh này vẫn thẫn thờ ở lại chờ BGK nhận xét về tiết mục, đứng buồn với vành môi bị xưng vì acid ăn. Tôi rất mong Tấn Phát không bị vấn đề gì về sức khỏe do acid, nhưng cần phải cảnh báo cho thí sinh này biết rằng anh ta nên thận trọng kiểm tra kỹ lưỡng vì ly nước anh ta uống sau khi uống nhầm acid đã mang một phần acid vào dạ dày và nó có thể gây rủi ro cho anh.

Nếu như ở các nước phát triển, tiết mục của Tấn Phát chắc chắn không thể diễn ra vì nó sử dụng hóa chất nguy hiểm, mà người dùng lại thiếu các kiến thức sơ đẳng về kiểm soát rủi ro, cũng như không có các phương án kiểm soát các rủi ro cho sức khỏe, tính mạng của anh ta, cũng như của những người xung quanh. Ban Tổ chức Vietnam’s Got Talent nên có một lời nhận lỗi chính thức trên các phương tiện đại chúng vì để những việc rủi ro như vậy xảy ra trên sóng truyền hình. Đối với các cơ quan chức năng, đây là một lời cảnh báo để họ cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa việc lưu hành, sử dụng hóa chất ở Việt Nam cho sức khỏe người dân và cho môi trường.

Bài viết này được biên tập gọn lại và đăng trong mục Góc nhìn của vnexpress.net (ngày 13/01/2015) với tiêu đề “Tai nạn Got Talent“.

Thương mại hóa nghiên cứu công nghệ: mô hình công ty spin-off

spinoffMột trong những đầu ra của nghiên cứu khoa học là các công nghệ mới có thể triển khai ứng dụng trong cuộc sống, đem lại lợi ích kinh tế cho cả xã hội cũng như bản thân người làm nghiên cứu. Để có thể triển khai các kết quả nghiên cứu, việc thành lập các doanh nghiệp công nghệ để thương mại hóa các kết quả này là một việc không thể thiếu. Chuyển giao công nghệ cho các tập đoàn công nghệ là một hình thức cho phép triển khai các nghiên cứu, nhưng cách này thường đòi hỏi việc “bán” sở hữu tài sản trí tuệ của nhà nghiên cứu. Thành lập các công ty khởi nghiệp do chính nhà khoa học đồng sở hữu với cơ quan nghiên cứu là một cách vừa cho phép thương mại hóa công nghệ, vừa cho phép nhà khoa học thu được lợi ích lâu dài từ việc sở hữu tài sản trí tuệ của mình, và chính cơ quan nghiên cứu cũng qua đó thu được lợi ích kinh tế. Đây chính là mô hình các công ty spin-off (university spin-off company hoặc technology spin-off company) rất phổ biến ở các nước phát triển.

Khái niệm “university spin-off company” hoặc “academic spin-off company” không mấy phổ biến ở Việt Nam, nhưng rất phổ biến ở các nước phát triển, đặc biệt ở các nước có nền khoa học phát triển, và thậm chí ngay nước láng giềng nhỏ bé của Việt Nam là Singapore [1]. Công ty công nghệ spin-off được hiểu là các công ty công nghệ triển khai các kết quả nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học với hình thức đồng sở hữu của cơ sở nghiên cứu và nhà phát minh, và được quản lý độc lập với cơ sở nghiên cứu. Công ty này phát triển và sản xuất sản phẩm từ công nghệ được phát triển bởi nhà nghiên cứu, và bán sản phẩm ra thị trường thông qua các kênh phân phối thích hợp. Hoặc ở quy mô thấp hơn, công ty spin-off có thể là một kênh trung gian để tiếp tục phát triển công nghệ nhằm chuyển giao tới các doanh nghiệp sản xuất lớn hơn [2].

Công viên Khoa học Cambridge, công viên khoa học đầu tiên tại Anh được thành lập năm 1970 bởi Trinity College (Viện Đại học Cambridge) cho mục đích làm cơ sở cho chuyển giao công nghệ từ Cambridge. Cambridge Science Park hiện là đại bản doanh của hơn 100 doanh nghiệp spin off được thành lập bởi Viện Đại học Cambridge.

Hình thức công ty “spin-off” xuất hiện lần đầu tiên ở Vương quốc Anh vào cuối thế kỷ 19 với sự xuất hiện của nhiều công ty công nghệ được thành lập bởi các trường đại học nghiên cứu tiên phong trong cách mạng công nghiệp, mà điển hình là hai trung tâm khoa học Cambridge và Oxford. Cho đến giữa thế kỷ 20, mô hình các công ty với đồng sở hữu của nhà khoa học và trường đại học tiếp tục được phát triển và nhiều tập đoàn công nghệ lớn đã được phát triển và duy trì đến ngày nay [3]. Và mô hình này nhanh chóng phát triển ở Mỹ và Anh từ giữa đến cuối thế kỷ 20, với một mốc quan trọng vào năm 1980, với Đạo luật  Bayh–Dole được phê duyệt ở Hoa kỳ nhằm luật hóa hoạt động của mô hình công ty này [4]. Từ đây, mô hình này nhanh chóng được phát triển ở nhiều nước như Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản,… và trở thành một giải pháp thích hợp cho phép nhà phát minh vừa giữ được tài sản trí tuệ, vừa thu được lợi nhuận từ kinh tế đồng thời cơ sở nghiên cứu cũng được hưởng lợi ích lâu dài.

Để có thể thành lập được các công ty spin-off thì điều đầu tiên (quan trọng nhất) là nhà nghiên cứu tạo ra được kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng (cho thị trường) và có khả năng thương mại hóa. Và cơ sở nghiên cứu sẽ hỗ trợ việc thương mại hóa thông qua các quỹ đầu tư khởi nghiệp (các trường đại học lớn trên thế giới đều có ngân quỹ như thế này) và đầu tư cho nhà nghiên cứu nhằm hình thành công ty (tất nhiên patent sở hữu trí tuệ luôn được đăng ký trước đó để bảo vệ sản phẩm trí tuệ bởi luật pháp). Điểm quan trọng ở đây là nhà phát minh không phải là người làm thuê cho khoản đầu tư này mà được cùng hưởng cổ phần trong doanh nghiệp (đồng thời là người sáng lập và lãnh đạo mảng kỹ thuật, công nghệ của công ty). Với những công nghệ cần có vốn đầu tư ban đầu lớn mà cơ sở không đủ khả năng đầu tư, họ sẽ kêu gọi đầu tư từ các nguồn đầu tư bên ngoài (quỹ đầu tư, doanh nghiệp,…) để cùng góp vốn. Đây chính là cách Đại học Quốc gia Singapore hỗ trợ PGS. Phan Toàn Thắng cách đây hơn 10 năm để mở công ty dựa trên phát minh tế bào gốc cuống rốn của anh. Có thể phân biệt công ty “university spin-off” và các doanh nghiệp khởi nghiệp (start-up entrepreneurs) theo bảng so sánh dưới đây:

  Spin-off Start-up
Thành lập bởi Trường đại học (cơ sở nghiên cứu, …) Bên ngoài trường đại học
Công nghệ Sở hữu bởi trường đại học Mua giấy phép công nghệ
Vốn đầu tư Trường đại học (cơ sở nghiên cứu) Bên ngoài trường đại học
Quản lý Các nhà nghiên cứu của trường đại học Người ngoài trường đại học

Bên cạnh những lợi ích kinh tế mà cơ sở nghiên cứu (cùng nhà nghiên cứu) thu được khi công ty hoạt động có hiệu quả, thì cơ sở nghiên cứu có thể hưởng lợi từ chính những thành tựu công nghiệp của công ty cho quá trình đào tạo. Nhà nghiên cứu (vẫn giữ chức vụ trong cơ sở nghiên cứu) sẽ đem chính những kinh nghiệm (R&D, quản trị,…) thực tiễn từ công ty truyền thụ lại cho các nhà nghiên cứu đi sau (sinh viên, thực tập viên,…) trong cơ sở và chính công ty có thể đầu tư ngược lại cho cơ sở nghiên cứu để nghiên cứu tìm kiếm những thành tựu lớn hơn nhằm tận dụng cơ sở hạ tầng nghiên cứu và nguồn nhân công chất lượng cao. Điều này thực hiện thông qua các đề tài công nghiệp đầu tư trực tiếp cho các phòng thí nghiệm [5].

Mô hình chuyển giao công nghệ của Stanford University.
Mô hình chuyển giao công nghệ của Stanford University.

Theo thống kê của HEFCE (Higher Education Funding Council for England), các trường đại học của Vương quốc Anh đã đóng góp 3,3 tỉ bảng Anh (khoảng 5,6 tỉ USD) cho nền kinh tế Anh trong năm 2010-2011 [6] trong đó lợi nhuận từ các công ty spin-off (năm 2010 có tới gần 1300 công ty spin-off) mới thành lập là 2,1 tỉ bảng (3,5 tỉ USD) và tạo ra 18,000 việc làm. Tính trung bình tiền đầu tư nghiên cứu thì cứ mỗi 24 triệu bảng Anh đầu tư có khả năng tạo ra một công ty spin-off (trong khi con số này ở Mỹ lên tới 56 triệu bảng) [6]. Hiệp hội Các nhà Quản lý Công nghệ của Đại học Mỹ (Association of University Technology Managers, AUTM) đã thống kê: trong vòng 20 năm (1980-1999) kể từ khi đạo luật Bayh–Dole về công ty spin-off được phê chuẩn, các công ty spin-off ở Mỹ đã đóng góp 33,5 tỉ USD cho nền kinh tế và tạo ra 280000 việc làm [7] và trung bình mỗi năm có hơn 200 công ty spin-off được đăng ký thành lập trên tổng số trên 132 trường đại học ở Mỹ. Từ năm 198, chính phủ Hoa kỳ có một chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu nhỏ mang tên Small Business Innovative Research (SBIR) với sự tham gia hỗ trợ của 12 cơ quan ngang bộ trong Chính phủ Hoa Kỳ. Năm 2004, chương trình SBIR đã giải ngân hơn 2 tỉ USD cho việc hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp spin-off [8], và tới năm 2009 đã trao cho tổng số 112500 công ty spin off với tổng đầu tư lên tới 26,9 tỉ USD. Các doanh nghiệp spin-off từ đại học Hoa Kỳ đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên thung lũng Silicon ở California.

Ngay trong khối ASEAN, Singapore tuy là một quốc gia nhỏ chỉ với 2 trường đại học nghiên cứu chính (Đại học Quốc gia – NUS, và Đại học Công nghệ Nanyang – NTU), cùng với hệ thống các viện nghiên cứu khoa học và công nghệ thuộc cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ (A*STAR) là những nơi ươm mầm cho các công ty công nghệ spin off. Chỉ tính trong 5 năm (1998-2003), đã có hơn 70 doanh nghiệp spin off được thành lập từ các cơ quan này [9]. Với nguồn đầu tư dồi dào từ ngân sách chính phủ cùng với cơ chế thoáng trong thủ tục hành chính, Singapore là một trong những quốc gia năng động nhất Châu Á trong việc phát triển mô hình spin off.

Phân bố đầu tư spin-off từ chương trình SBIR trên các bang của Hoa Kỳ [8].
Phân bố đầu tư spin-off từ chương trình SBIR trên các bang của Hoa Kỳ [8].
Đặc điểm quan trọng của các công ty spin off là quy mô khởi đầu vừa và nhỏ với số vốn đầu tư không quá lớn (tất nhiên tùy thuộc từng lĩnh vực cụ thể) và dễ dàng thích ứng với sự thay đổi của thị trường. Giáo sư Xiaogang Peng (Đại học Arkansas, Hoa Kỳ) trong bài tổng quan về cơ hội và thách thức đối với mô hình spin off [8] đã ví mô hình spin off giống như các con thuyền nhỏ đi trên sóng nước, dễ dàng thích ứng với các con sóng dữ nhờ sự linh động. Mô hình các công ty spin off vừa và nhỏ hiện đang được yêu thích và đầu tư mạnh ở nhiều quốc gia Châu Âu do khả năng tạo việc làm tốt, tận dụng cơ sở hạ tầng nghiên cứu từ chính các trung tâm nghiên cứu phát triển, nơi được đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại đủ khả năng phục vụ cho cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phát triển, vừa tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao được đào tạo từ đây. Với quy mô vừa và nhỏ, khả năng thu hồi vốn của spin off nhanh hơn cùng với chi phí thấp hơn cho việc xây dựng cơ sở vật chất cũng như chi phí quản trị. Bên cạnh đó, các trường đại học lớn hiện này còn tính đến sự “xung đột” giữa chức năng làm học thuật (của nhà nghiên cứu) và chức năng làm kinh doanh (khi quản lý doanh nghiệp spin off) nên đều có những văn bản thỏa thuận rất rõ ràng về phân công các nhiệm vụ mà nhà khoa học cần hoàn thành.

Trở lại với Việt Nam, không thể không thừa nhận một thực tế đáng buồn là nền khoa học còn ở mức thấp so với mặt bằng thế giới. Nhưng ở trong bức tranh tối về nền khoa học Việt Nam thì vẫn có một số điểm sáng của một số nhà khoa học có năng lực, có tâm huyết và say mê với nghề nên đã tạo ra một số kết quả có ý nghĩa khoa học và ứng dụng, cũng như tiềm năng thương mại hóa. Tuy nhiên, thuật ngữ  “spin off” dường như còn khá mới mẻ và mô hình này thực chất chưa được phát triển. Ở nhiều trường đại học và cơ sở nghiên cứu, các kết quả có tính ứng dụng và thương mại hóa thường được chuyển giao một cách vội vã và chưa tính đến lợi ích lâu dài cho chính nhà nghiên cứu và cơ sở nghiên cứu, hoặc trong nhiều trường hợp các kết quả bị bỏ qua vì không có tiền đầu tư làm thương mại hóa. Trong một bài phỏng vấn gần đây trên Tạp chí Kiến thức [10], PGS. TS. Phạm Văn Nho (Đại học Quốc gia Hà Nội), người theo đuổi các nghiên cứu ứng dụng vật liệu nano đã “than thở” rằng các sản phẩm của ông không có khả năng đưa đến thị trường vì vừa thiếu tiền khởi nghiệp, vừa không đủ khả năng giới thiệu bán sản phẩm,…

Những bức xúc của PGS Nho cũng chính là một thực tế phản ánh sự thiếu hỗ trợ từ chính trường đại học và nhà nước trong việc hỗ trợ các nhà khoa học thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu. Bên cạnh việc thiếu các nguồn đầu tư thì chính sự thiếu cơ chế khởi nghiệp nhằm cân bằng lợi ích kinh tế của nhà khoa học và cơ quan quản lý cũng là một nguyên nhân gây khó khăn. Và mô hình spin off chính là một giải pháp tốt cho những lợi ích này. Để có thể phát triển được mô hình này, điều đầu tiên tất nhiên phải đến từ chính nghiên cứu của các nhà khoa học: các kết quả có tính ứng dụng. Thứ hai là hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cần chặt chẽ để giúp nhà nghiên cứu có thể bảo vệ sản phẩm của mình. Thứ ba là các quỹ đầu tư khởi nghiệp từ chính phủ trực tiếp cho các cơ quan nghiên cứu cho mục đích spin off, cùng với hệ thống pháp lý chặt chẽ, rõ ràng quy định về quyền lợi các bên (nhà nghiên cứu, cơ quan sở hữu,…), và cơ chế thông thoáng, thủ tục hành chính gọn nhẹ. Và thứ tư, cần sự quản lý độc lập (theo đúng mô hình spin-off) của các công ty khởi nghiệp khỏi hệ thống hành chính và học thuật của trường đại học, viện nghiên cứu nhằm để các công ty này vận hành theo đúng cơ chế thị trường. Rất mong Bộ Khoa học Công nghệ, các cơ quan điều hành nghiên cứu khoa học (Quỹ NAFOSTED,…) cần nghiên cứu xây dựng các quỹ khởi nghiệp spin off để hỗ trợ các nghiên cứu ứng dụng, cùng với việc xây dựng hệ thống văn bản pháp quy nhằm luật hóa mô hình này.

Tham khảo

[1]          Chỉ tính một Phân khoa Kỹ thuật (Faculty of Engineering) của Đại học Quốc gia Singapore (NUS) đã tạo ra gần 60 công ty spin-off từ các kết quả nghiên cứu tại đây, tính từ công ty đầu tiên được thành lập năm 1988. http://www.eng.nus.edu.sg/research/ResAchievement%20-%20Spin-Off.htm

[2]          R. P. O’Shea, H. Chugh, T. J. Allen, “Determinants and consequences of university spinoff activity: a conceptual framework”, J. Technol. Transf. (DOI 10.1007/s10961-007-9060-0), 2007.

[3]          Điển hình là Tập đoàn Oxford Instruments (http://www.oxford-instruments.com/) là một trong những công ty spin-off lớn nhất được thành lập từ Viện Đại học Oxford vào năm 1959 và là một trong những tập đoàn lớn trên thế giới sản xuất các thiết bị khoa học chất lượng cao hiện nay.

[4]          S. Shane, “Academic Entrepreneurship: University Spinoffs and Wealth Creation”, Elgaronline Publishing, 2004 (DOI: 10.4337/9781843769828.00008).

[5]          Ví dụ như Bộ Khoa học và Giáo dục Bậc cao (Ministry of Higher Education and Science) của Đan Mạch có riêng một chương trình cho các nghiên cứu sinh công nghiệp (The Industrial PhD Programme) nhằm quản lý tư vấn cho nghiên cứu sinh cũng như nhà đầu tư công nghiệp. http://ufm.dk/en/research-and-innovation/funding-programmes-for-research-and-innovation/find-danish-funding-programmes/postgraduates-in-the-private-sector/industrial-phd/

[6]          HEFCE, 23/07/2012: “UK universities contribute to economic growth”, http://www.hefce.ac.uk/news/newsarchive/2012/news73740.html

[7]          R.P. O’Shea et al., “Entrepreneurial orientation, technology transfer and spinoff performance of U.S. universities”, Res. Pol. 34, 994 (2005).

[8]          X. Peng, “University spin-offs: Opportunity or challenge?”, Nature Materials 5, 923 (2006).

[9]          C. C. Hang, “Commercialization Of Publicy Funded Research : Singapore Experience”,?

[10]      “Nhà khoa học không phải “con buôn””, Tạp chí Kiến thức, 16/04/2014 http://kienthuc.net.vn/diem-nong/nha-khoa-hoc-khong-phai-con-buon-331482.html

 

Bản rút gọn của bài viết được đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn (số ra ngày 17/7/2014).

TBKTSG1

TBKTSG2