Charlotte Brontë và Jane Eyre

11881841544_8018d176c2_oĐúng 200 năm trước, nữ nhà văn Charlotte Brontë chào đời trong gia đình Brontë có 6 chị em mà trong đó Charlotte là chị cả trong ba chị em gái, Emily Brontë và Anne Brontë. Thật hiếm có một gia đình nào mà sinh ra tới ba nữ nhà văn với những tác phẩm văn học đã trở thành các tác phẩm kinh điển của văn học thế giới. Charlotte Brontë với Jane Eyre, Emily Brontë với Đồi gió hú, còn Anne Brontë với Người tá điền đồi Wildfell (tôi chưa được đọc tác phẩm này). Họ đều là những nhà văn yểu mệnh (Anne qua đời khi mới chỉ 29 tuổi, Emily cũng không khá hơn bao nhiêu, qua đời khi 30 tuổi, Charlotte “thọ” hơn hai em mình một chút nhưng cũng qua đời khi chưa đến 40 tuổi), nhưng tên tuổi họ còn mãi với những tác phẩm văn học tuy không phải đồ sộ nhưng sống mãi với thời gian, với những nhân vật khiến người đọc mãi không quên được. Jane Eyre là “con đẻ” của Charlotte, và là một trong những “nữ anh hùng bất diệt” của làng văn học thế giới.

Jane Eyre được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1847, cách đây gần 170 năm, nhưng bà đã bắt đầu đặt những dòng đầu tiên cho tiểu thuyết này từ trước đó 7 năm, từ 1840. Quán bar The Salutation ở quận Hulme, thành phố Manchester (12 Higher Chatham Street, Manchester M15 6ED) gần nơi tôi sống và làm việc là nơi Charlotte bắt đầu viết Jane Eyre. Có lẽ Jane Eyre đã làm lu mờ những tác phẩm khác của Charlotte. Nó đã trở thành một tác phẩm kinh điển không chỉ của văn học Anh mà còn là của văn học thế giới, với đủ các chuyển thể, từ phim truyền hình, tới kịch, phim điện ảnh. Jane Eyre đã trở thành sách đọc phổ biến trong trường học ở Anh và nhiều nước trên thế giới, và nó đứng trong top 10 tác phẩm văn học Anh được đọc nhiều nhất, theo khảo sát của BBC vào năm 2003.

Jane Eyre có tên đầy đủ là “Jane Eyre: An Autobiography” (Jane Eyre: Tiểu sự tự thuật) viết về cuộc đời của nữ nhân vật cùng tên. Jane mồ côi cha mẹ từ khi còn rất bé, đến độ cô hầu như chẳng còn chút ký ức nào về cha mẹ mình. Jane được cậu ruột (Mr. Reed) nuôi và đến năm 10 tuổi thì được gửi vào trại trẻ mồ côi, trường Lowood, nơi cô được giáo dục theo lối khổ hạnh (“hành hạ thân xác để giữ gìn phần hồn”). Jane lớn lên ở Lowood trong 10 năm, và từng làm giáo viên trong trường đó trong 2 năm, sau đó rời Lowood bắt đầu cuộc sống bên ngoài ngôi trường khổ hạnh này. Cô bắt đầu cuộc sống bằng việc làm gia sư cho gia đình Rochester ở lâu đài Thornfield. Người ta còn tranh cãi về thực sự Thornfield là nơi nào ở nước Anh, nhưng phần đông có vẻ đồng ý rằng lâu đài Haddon ở Bakewell, Derbyshire dường như là nơi mà Charlotte Brontë lấy làm hình mẫu cho Thornfield.

Ở Thornfield, Jane dạy học cho bé Adele Varens, và đã gặp ông chủ của lâu đài, Edward Fairfax Rochester (bé Adele Varens là con gái của một vũ nữ người Pháp, người tình cũ của Rochester). Hai người yêu nhau bằng sự đồng điệu của trái tim chứ không phải bởi vẻ bề ngoài: Jane Eyre không phải là một phụ nữ đẹp, còn Rochester cũng chẳng đẹp trai. Rochester là một người giàu có từng có quá khứ đầy giông bão với những cuộc tình không đi tới đâu bởi ông muốn tìm kiếm một người vợ đích thực của trái tim mình, còn Jane là một con người khiến mọi người sửng sốt, cho dù cô có đẹp hay không. Jane có tính cách ngay thẳng, dũng cảm, một trái tim nhân hậu mà không bi lụy, dám yêu và dám nói lên tiếng nói trái tim mình. Chớ trêu thay, đám cưới giữa hai người không thể diễn ra vì Rochester đã có vợ, một người vợ mà không bị lừa để cưới, một người tâm thần điên loại  đã hành hạ ông nhiều năm mà ông không thể từ bỏ. Rochester từng suýt tự vẫn vì nghĩ tới việc sống suốt đời với người vợ điên, nhưng rồi không đã nghĩ lại và lao vào các cuộc tình. Jane là người đưa ông ra khỏi sự sa lầy đó bằng sự cuốn hút của một trái tim mà ông vẫn trông đợi.

Đám cưới không thành, Jane đau khổ bỏ trốn khỏi Thornfield và suýt chết đói khi lang thang. Cô được ba anh em, St. John Eyre Rivers (một mục sư Tin lành), Diana và Mary Rivers cứu sống và lại làm một cô giáo ở một miền quê nghèo. Thật tình cờ, St. John, Diana và Mary chính là những anh chị em họ của Jane, mẹ của họ là chị gái của cha đẻ Jane. Rồi Jane nhận thừa kế từ chú ruột của mình (và cũng là cậu ruột của ba an hem St. John, Diana và Mary), trở nên giàu có. Cô vẫn khắc khoải không quên được Rochester, và đã quả quyết trở lại tìm người tình của mình. Lúc này, lâu đài Thornfield đã gặp hỏa hoạn do bà vợ điên loạn của Rochester gây ra. Vì mải cứu mọi người, Rochester bị tai nạn liệt một cánh tay và mù cả hai mắt, và sống cùng hai người giúp việc trung thành, còn bà vợ điên thì chết trong hỏa hoạn dù Rochester đã cố gắng để lôi bà ta ra. Jane đã cầu hôn với Rochester, bởi cô nhận thấy rằng mình chỉ có hạnh phúc khi ở bên Rochester.

Tôi thích Jane Eyre bởi triết lý “Ý chí của bạn quyết định vận mệnh của bạn” từ tác phẩm này, và cũng từ những triết lý đầy nhân văn của tác phẩm “cuộc sống đến với tôi quá ngắn ngủi nên không thể tiêu phí cho việc nuôi dưỡng lòng thù hận hay ghi nhớ những lỗi lầm” – lời của Helen Burns, người bạn của Jane trong trại mồ côi Lowood – cô bé mất sớm vì bệnh tật. Người ta đã viết nhiều về Jane, người phụ nữ với những tính cách mà mọi người phụ nữ đáng học tập. Jane là một cô gái có trái tim nhân hậu, nhưng luôn không bỏ rơi bản thân mình và luôn biết quan tâm đến bản thân mình: “Tôi quan tâm đến bản thân. Tôi càng cô độc, tôi càng ít bạn bè, tôi càng không khuất phục thì tôi càng tôn trọng chính mình”. Cô là một người luôn lạc quan, dù nhiều lần trải qua cuộc sống khắc nghiệt và khó khan. Jane luôn tìm cách sống hạnh phúc bất kể quá khứ của mình “ngay cả với tôi, cuộc sống cũng có những tia nắng yếu ớt”. Cô là một con người độc lập, biết làm chủ bản thân mình.

Nữ nhà văn Charlotte Brontë đã gửi gắm vào Jane những tuyên ngôn mạnh mẽ về tình yêu. Rochester và Jane, hai tâm hồn khao khát tình thương yêu đã gặp nhau ở lâu đài Thornfield, họ bù đắp và sẻ chia những phần còn khuyết trong tâm hồn người kia. Cả hai vượt lên cá tính, tuổi tác, địa vị, tài sản đến với nhau một cách tự nguyện và bình đẳng, và người nữ anh hùng Jane còn đáng khen hơn cả vì (bạn hãy nhớ là thời của Jane cách đây vài trăm năm rồi) đã vượt qua những rào cản của nữ giới, mà tới thời nay nhiều người vẫn chưa dám bước qua: “Nói chung, phụ nữ được cho là rất yên ả: nhưng cảm nhận của phụ nữ cũng giống như của nam giới; họ cần rèn luyện khả năng của mình, họ cần một lĩnh vực để thể hiện những nỗ lực của mình, cũng nhiều không kém như những đồng nghiệp của họ; họ bị kềm hãm quá đỗi khắt khe, chịu đựng tình trạng tù hãm tuyệt đối, giống hệt như những gì nam giới phải chịu; và chính sự thiển cận trong suy nghĩ của những con người cùng thời có đặc quyền đặc lợi hơn đã cho rằng họ buộc phải giam hãm bản thân trong những công việc làm bánh, đan lát, chơi đàn và thêu thùa. Thật khinh xuất khi chỉ trích họ hay cười nhạo họ trong trường hợp họ làm nhiều hơn hay học hỏi nhiều hơn cái tập tục được tuyên bố là cần thiết cho giới tính của họ.” Jane dám yêu, dám ghét, dám phá bỏ những rào cản để tìm hạnh phúc của mình, nhưng không bỏ qua những nguyên tắc của bản thân mình. Với tôi, Jane hơn một nữ nhân vật nổi tiếng khác là Meggie trong tiểu thuyết “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” của nữ văn sĩ Colleen McCullough, vì Jane dám tự mình đấu tranh với số phận, tự mình giành lại tình yêu và hạnh phúc của riêng mình (tất nhiên là Meggie cũng tuyệt vời vì cướp được cả cha Ralph từ tay Chúa).

Triết lý lớn cuối cùng mà Jane truyền tới người đọc là hãy tìm đến một cuộc hôn nhân vì tình yêu. Người anh họ, mục sư St. John, đã cầu hôn Jane để muốn cô là người đồng hành đi truyền giáo ở Ấn Độ. Nhưng Jane đã từ chối vì nhận thấy cô không thể làm vợ của con người của Chúa này. St. John không yêu Jane, dù anh là một người đàn ông nhân hậu, và điều đó khiến cô biết mình sẽ không thể hạnh phúc khi làm vợ của St John, người chỉ biết sống vì lý tưởng (dù đó là lý tưởng cao đẹp). Hạnh phúc và tình yêu của Jane là Edward Fairfax Rochester, người giờ đây dù là một người tàn tật, thậm chí không thể nhìn được cô: “Hy sinh! Em làm gì mà gọi là hy sinh chứ? Chẳng lẽ có được đặc quyền vòng cánh tay ôm lấy người mà em vẫn quý trọng…được đặt môi hôn người mà em yêu…được nương tựa vào người mà em tin tưởng cũng gọi là hy sinh ư? Nếu vậy thì quả thực em đã tìm được niềm vui trong sự hy sinh.

Vâng, tôi đã lan man quá nhiều về Jane, một trong ba nữ anh hùng của chị em nhà Brontë (Jane trong Jane Eyre, Catherine trong Đồi gió hú, Helen trong Người tá điền đồi Wildfell, ba trong số những người nữ anh hùng văn học tuyệt vời nhất). Bạn có thể so sánh Jane Eyre và Đồi gió hú để thấy một điều rất thú vị: Jane là sản phẩm của giáo dục nên cái quyết liệt của cô cũng thật nhân văn, khác với Catherine trong Đồi gió hú, không có dấu ấn nào của nền giáo dục. Vì thế mà tình yêu của Heathcliff với Catherine cũng thật hoang dại và câu chuyện đầy ắp những thù hận. Nền giáo dục của Jane, dù thật khổ hạnh và khắc nghiệt vẫn tạo ra những cô gái có trái tim nhân ái như Jane Eyre, như Helen Burns. Bạn có thấy thú vị không, dù ở đâu, Jane vẫn luôn hay đọc sách, và ta bắt gặp Jane mải miết đọc sách ngay từ mở đầu câu chuyện.

Glasgow – Ký ức ngọt ngào

12 Tháng 10 2011

Hơn một năm sau khi rời khỏi nước Anh, ký ức về những ngày sống và học tập ở Glasgow (và Vương quốc Anh) chưa bao giờ nhạt phai trong tôi và vẫn thường hiện về trong những giấc mơ như những kỷ niệm đẹp nhất của cuộc đời. Bốn năm không phải là thời gian quá dài trong đời một con người, nhưng đủ để tạo thành trong tôi một nỗi nhớ khôn nguôi về từng con phố, con đường, những công viên và sự kiện mà tôi đã tham gia.

Tôi lần đầu đặt chân đến nước Anh vào một ngày mưa lạnh đầu mùa thu năm 2006. Mặc dù từng nghe nói trước về giọng tiếng Anh rất khó nghe xứ Scot, tôi vẫn thật sự bị choáng khi nói chuyện với giáo viên và người dân ở đây và nó dường như làm cảm giác tự ti trong tôi lớn dần. Nhưng những giáo viên hướng dẫn nghiên cứu của tôi lại làm tôi cảm thấy gần gũi và ấm áp hơn. Đó là Tiến sĩ Steven McVitie, hướng dẫn thứ nhất, một người trẻ trung, chất giọng đặc sệt xứ Scot, quanh năm chỉ bận quần jean và áo phông, thích uống bia Stella Artois và tán gẫu, có lối giảng bài rất đơn giản và dễ hiểu. Bốn năm làm trợ giảng cho Steven, tôi được chứng kiến sinh viên Khoa Vật lý và Thiên văn của Đại học Glasgow thích bài giảng của Steven thế nào và nhiều lần bình chọn anh là giảng sư xuất sắc. Ngược với Steven, giáo viên hướng dẫn thứ hai của tôi, Giáo sư John Chapman lại là một người có phong cách lịch thiệp và điềm đạm. John là dân English thứ thiệt, sinh ra ở thành phố Sheffield, được đào tạo từ trường phái Cambridge và là nhà khoa học xuất sắc trong chuyên ngành của tôi nhưng lại rất hiền và khiêm tốn. John và Steven là những người đã thay đổi tôi cái khoảng cách “thầy-trò”, thay đổi cách nhìn về người Anh: họ rất thân thiện chứ không hoàn toàn lạnh lùng như tôi vẫn nghe. Năm đầu tiên ở Glasgow, tôi thường kết thúc giờ làm khá muộn, lang thang trên những con đường ở West End, lân la bắt chuyện với người dân Glasgow để tăng cường vốn tiếng Anh ít ỏi của mình và nó đã giúp tôi rất nhiều trong giao tiếp. Bốn năm sống ở xứ Scotland làm tôi yêu giọng nói cũng như người dân xứ sở này, và vô tình giọng tiếng Anh của tôi cũng chút ít “lai” theo giọng người Scotland.

Đại học Glasgow nằm ở vị trí đẹp nhất của West End, trên đỉnh Gilmore Hill, có dòng sông Kelvin hiền hòa uốn quanh. Đứng bên tháp chuông cổ kính của trường nhìn xuống có thể nhìn thấy bảo tàng nghệ thuật Kelvingrove như một lâu đài cổ kính màu đỏ. Kelvingrove cũng là nơi rất tuyệt để vừa xem những tác phẩm nghệ thuật, khoa học, khảo cổ đồng thời luyện nói tiếng Anh với những hướng dẫn viên rất nhiệt tình, tốt bụng mà hoàn toàn miễn phí. Hầu hết họ là những người già về hưu tình nguyện làm công việc như một niềm say mê yêu thích.

Mùa đông có lẽ là thời gian buồn nhất ở đây. Cây cối trơ trụi xù xì, bầu trời u ám, bóng tối bao phủ thành phố từ rất sớm cho đến sáng muộn. Mùa đông cũng là mùa mà ta có thể cảm nhận “xứ sở sương mù”, “đặc sản” xứ Britain như các bạn của tôi thường nói: thành phố đắm chìm trong màn sương mờ ảo, nhưng hãy cẩn thận khi đi trong đêm tối, dưới chân là băng đóng dày và bạn có thể bị trơn trượt ngã đau điếng. Giữa mùa đông, tuyết bắt đầu rơi. Là người đến từ xứ sở nhiệt đới, tôi tin là bất kỳ ai lần đầu được thấy tuyết đều có một cảm giác thật thích thú. Hai vợ chồng tôi từng lội tuyết bì bõm suốt từ đầu phía đông thành phố để quay về nhà ở West End, đó cũng là lần đầu tiên vợ tôi biết thế nào là tuyết. Đầu mùa đông cũng là lúc mà lễ hội Bonfire diễn ra trên toàn quốc vào ngày 5/11 hàng năm, pháo hoa bắn sáng rực ở công viên Glasgow Green, bên dưới bầu trời rực sáng ấy là những nụ hôn say đắm của những đôi tình nhân.

Tháng tư là lúc mùa xuân về, bầu trời trong xanh không gợn mây, nắng vàng rực trên thảm cỏ xanh mướt lốm đốm trắng bởi những bông hoa daisy. Mùa xuân là mùa đẹp nhất ở Glasgow với hoa anh đào và hoa thủy tiên rực rỡ khắp hơn 90 công viên lớn nhỏ trên toàn thành phố. Mặt trời thì sáng cho đến gần nửa đêm và chúng tôi thường nắm tay nhau đi dạo khắp West End sau bữa tối, ngắm hoàng hôn buông trên những rặng anh đào đỏ rực, ngắm hàng hôn màu tím xa xa sau những ống khói phòng thí nghiệm trường Glasgow, hay ngắm những cây cầu đi bộ soi bóng bên dòng sông Clyde hiền hòa, hay cùng ra công viên Kelvingrove xem lũ trẻ chơi X-games. Mùa xuân và mùa hè với thời gian chiếu sáng của mặt trời dài hơn dường như làm cho nhịp sống như chậm lại. Cuối tuần con đường đi bộ Buchanan Street bỗng dưng nhộn nhịp khách đi bộ, đi mua sắm và xem những nghệ sĩ đường phố biểu diễn.

Mùa xuân và hè cũng là lúc mà cả nước Anh, cả Scotland như bừng lên sau một mùa đông dài u ám. Chỉ với một pound đặt trước, ta có thể mua một vé xe khách Megabus cho một chuyến du lịch London, hay chỉ hơn 6 pounds có thể mua một vé tàu 2 chiều đi chơi Edinburgh, Stirling thăm những lâu đài cổ kính, thăm những người bạn. Giao thông của Vương quốc Anh rất thuận tiện cho những ai thích du lịch với nhiều loại hình giao thông với giá cả rất phải chăng: bus, train, hàng không giá rẻ. Càng dễ dàng hơn đối với sinh viên, những người vốn nghèo, không đòi hỏi tiện nghi sang trọng, chỉ với một số tiền ít ỏi cũng đủ cho họ một chuyến đi vòng quanh Anh quốc hoặc chỉ 20 phút tàu có thể đến vùng hồ Loch Lomon xinh đẹp. Sau một kỳ thi dài, hay những ngày dài trong phòng thí nghiệm, cùng bạn bè sinh viên tận hưởng cảm giác thanh bình bên những ngôi nhà nhỏ ở Portstewart có những nghệ sĩ ngồi chơi đàn bên cửa sổ có thể khiến bất kỳ ai muốn ở lại chẳng muốn về; hay cùng người yêu tay trong tay ngắm hoàng hôn buông bên thành cổ của cực tây Londonderry mới thấy hết cái cảm giác thanh bình nơi đây.

Đại học Glasgow, nơi tôi có 4 năm học tập và nghiên cứu luôn là niềm tự hào của thành phố với một main building như một lâu đài cổ. Tôi không còn nhớ đã giới thiệu với bao nhiêu bạn bè về “lâu đài cổ” này một niềm tự hào. Bạn bè sinh viên Việt Nam ở nước Anh đến thăm Glasgow rất nhiều và bất cứ ai chúng tôi cũng đều giới thiệu về “lâu đài cổ” này. Bên dưới chân “lâu đài” là dòng Kelvin rì rào uốn khúc, soi bóng những tượng vĩ nhân xưa của trường: Lord Kelvin, Lister, Adam Smith,… Sự nghiêm túc và đòi hỏi cao trong học thuật là những gì mà tôi học được ở đây cùng với sự thân thiện của giảng viên và những đồng nghiệp nghiên cứu. Tôi mãi nhớ GS John Chapman của tôi lần đầu tiếp chuyện tôi, đã cắt lời tôi bằng một câu nói rất đáng nhớ: “Hãy gọi tôi là John, như một người bạn, đừng gọi tôi là Giáo sư”. Bốn năm học ở Glasgow đã trang bị cho tôi sự tự tin vào kiến thức của mình để bước chân vào con đường khoa học.

Giờ đây, xa cách Glasgow đã gần 2 năm, chúng tôi vẫn không quên được Glasgow, không quên được ngôi nhà nhỏ bên Southpark Terrace trên đỉnh Hillhead mà nhà trường đã giành cho chúng tôi. Chúng tôi vẫn mơ về ngôi nhà nhỏ ấy, mơ về những người bạn thân đã cùng chia sẻ những buồn vui trong suốt những năm tháng ở Glasgow. Những ngày tháng sống và học tập ở Glasgow vẫn là những ký ức ngọt ngào nhất trong cuộc đời tôi, có lẽ sẽ theo suốt cuộc đời.

 

Bài viết dự thi “Nước Anh trong mắt tôi” do Hội đồng Anh tổ chức, đăng trên website của cuộc thi

http://ukinmyeyes.net/index.php?option=com_zoo&task=item&item_id=42&Itemid=8

Mưa xuân – hoa xoan quê nhà

Từ cách đây 3 năm trở về trước, khi còn là sinh viên, tôi có nhiều thời gian rảnh rỗi để hàng ngày ngồi dịch các tin tức khoa học hoặc viết bình luận về văn thơ, lịch sử. Giờ thì bị cuốn theo dòng xoáy cuộc sống, hầu như không còn thời gian cho những sở thích này nữa. Lục lại trong blog yahoo cũ, thấy bài này, vừa là bình luận văn học, mà lại vừa là bài viết theo lối hài hước, thu hút rất nhiều bạn hữu đọc và bình luận. Bây giờ thấy blog wordpress này là nơi chia sẻ những trang viết cá nhân, tôi copy lại và đưa lên đây.

———–

Bài viết này tặng cho bạn Nguyễn Anh Tuấn của tôi và cô gái nào mà Tuấn từng tặng những câu thơ này! – Glasgow ngày 18 tháng 1 năm 2007

Đêm nay Glasgow có tuyết rơi, phất phơ bay như những cánh hoa tơi tả trong mưa gió. Trở về sau chuyến công tác Durham mệt mỏi lại thêm phải dầm mình trong mưa tuyết từ Central Station về nhà, mình chẳng buồn ăn nữa, nhưng thấy anh bạn Alex của mình vẫn cặm cụi nấu ăn, thế là lại nấu cơm và ngồi ăn cùng Alex, ăn rồi lăn ra ngủ. Thật là mệt mỏi nhưng tỉnh dậy cũng thật sảng khoái. Hôm nay đi làm, anh bạn của mình là Nguyễn Anh Tuấn (đang tu hành ở xứ sở tuyết phủ Ishikawa đọc cho nghe mấy câu thơ Nguyễn Bính:

“Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già

Lòng trẻ còn như cây lụa trắng

Mẹ già chưa bán chợ làng xa…”

(Hình như hắn vừa tặng cô nào đó mấy câu thơ này ). Thế là mình chợt nhớ mình từng bình loạn nó rồi, hôm nay post lại, một là tặng bạn Nguyễn Anh Tuấn của mình (và cả cô nào của Tuấn nếu anh chàng này từng tặng ai đó), hai là bâng khuâng nhớ quê nhà.

MƯA XUÂN – Nguyễn Bính

Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già

Lòng trẻ còn như cây lụa trắng

Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

 

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Ðặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: “Thôn Ðoài hát tối nay”.

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hoa xoan là hình ảnh quen thuộc với những ai sống ở nông thôn (và tất nhiên trong đó có tôi). Vào khoảng tháng 3 (những ngày cuối xuân), những cây xoan khẳng khiu của mùa đông sẽ được thay bởi những cây xoan xanh lá với những chùm hoa màu trắng điểm những chấm nhỏ màu tím. Và trong gió xuân, hoa xoan rụng lả tả như những bông tuyết nhỏ, và hoa xoan rụng cũng báo hiệu những hội xuân cuối cùng. Có lẽ thế hệ của tôi là thế hệ cuối cùng chứng kiến những chứng tích cũ của làng quê (bởi bây giờ làng quê đã đổi khác lắm rồi). Khi còn nhỏ, tôi được biết những háo hức của cả làng mỗi khi có đoàn văn công, cải lương hay chèo về biểu diễn. Nhưng cũng không thú vị bằng những hội làng (tất nhiên ở quê tôi không có hát chèo). Và cái hội xuân trong bài thơ ấy là hội chèo, và tối nay, làng Đặng sẽ hát. Thôn Đoài (chỉ thôn bên Tây) tối nay sẽ có đoàn chèo làng Đặng hát. Và lòng cô gái đã phơi phới như mưa xuân bay, hoa xoan rụng lớp lớp như bao tình cảm vơi đầy trong lòng cô, tại sao vậy?

Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Khiếp, nghĩ đến hành động lãng mạn nào của “anh” mà khiến cô đỏ mặt vậy? (Lại dại trai rồi) Ta biết ngay rằng gánh chèo có liên quan đến nhân vật anh rồi? Và lòng cô rộn lên bao tình cảm, dường như “bao lưu luyến mối tơ vương” khiến cô phải ngừng tay dệt cửi. Và cô ngóng đến trời tối biết bao!

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

Em ngửa bàn tay trước mái hiên

Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh

Thế nào anh ấy chả sang xem!

 

Em xin phép mẹ, vội vàng đi

Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe.

Mưa bụi nên em không ướt áo

Thôn Ðoài cách có một thôi đê.

Biết ngay mà! (Chết vì giai thôi)”Thể nào anh ấy chẳng sang xem”. Thiếu nữ dường như đã có hẹn với chàng trai, lòng cô phơi phới niềm vui, mong đến đêm hội để được gặp người yêu nên đành dối mẹ đi xem hội, để “vội vàng đi”, lòng cô rộn lên bao niềm vui, “Thế nào anh ấy chả sang xem!”. Cô đi trong buổi tối, quên hết bao cản trở thiên nhiên, dường như mưa không làm cô quản ngại “Mưa bụi nên em không ướt áo”, đường tới thôn Đoài dù xa, cũng chỉ “cách có một thôi đê”. Quả thật, tình yêu có sức hút lạ kỳ. Lúc này khoảng cách tới thôn Đoài dù có xa bao nhiêu, nhưng mong ước được gặp “anh” khiến cho khoảng cách dường như ngắn lại. Hẳn cô nhớ chàng trai lắm rồi, có lẽ chẳng còn nhớ lời mẹ dặn “Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe” nữa. Quả đúng như thế. Cô còn lòng dạ nào mà xem hội nữa chứ:

Thôn Ðoài vào đám hát thâu đêm

Em mải tìm anh chả thiết xem

Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

 

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Ðể cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!

Đúng là cô dối mẹ để sang hội với anh. Dù thôn Đoài hát có hay đến đâu, lòng cô đâu có thiết xem, bởi hồn cô đã dành cho một hình ảnh khác “Em mải tìm anh chả thiết xem”. Và cô tự nhủ rằng, hôm nay, khung cửi sẽ lạnh vì xa cô, thoi ngà sẽ nhớ những ngón tay xinh của cô. Nhưng không, tất cả lòng cô đã dành cho anh. Nhưng cũng thật đau lòng cho cô “Chờ mãi anh sang anh chẳng sang”.. Giọng cô chùng xuống như trách móc, lệ cô chực trào ra “Thế mà hôm nọ hát bên làng. Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn”.. Cô khóc mất rồi, và cô đã khóc cho mình, khóc cho cái xuân tình trôi qua theo dòng nước “Ðể cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!”. Cả mùa xuân ấy kết thúc với cô gái thật buồn, chàng trai lỡ hẹn dù đã “năm tao bảy tuyết” hò hẹn với cô. Tôi tưởng tượng được khuôn mặt cô lúc này, có lẽ chẳng có gì buồn hơn, bởi cô biết rằng mối tình trong lòng cô như tan nát bởi anh đã lỡ hẹn. Cô ra về trong mưa, mưa hay là cô khóc nhỉ? Có lẽ tôi và ngay cả cô ấy cũng chẳng hiểu nữa:

Mình em lầm lũi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê!

Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng Ðặng về ngang ngõ

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”.

 

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Ðặng đi ngang ngõ

Ðể mẹ em rằng hát tối nay?

Ba khổ cuối đối nghịch với ba khổ đầu tiên (nghệ thuật độc đáo nhất cuả bài) làm cho người đọc cảm giác được nỗi buồn thật sự trong cô gái. Nếu như trước đây “Thôn Ðoài cách có một thôi đê.”, thì nay, một thôi đê ấy sao mà dài thế “Có ngắn gì đâu một dải đê!”, một mình em đi về trong mưa, vẫn là mưa xuân ấy mà nay đã trở nên nặng hạt, em ra về lòng xiết bao đau buồn “Mình em lầm lũi trên đường về” và “Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya”. Con đường lúc này cũng như dài hơn ra, chẳng còn ngắn có “một thôi đê” như lúc lòng phơi phới tìm anh và vẫn là những giọt mưa xuân ấy, mà sao bây giờ nó nặng hạt thế, làm em thấm lạnh, nhưng cái lạnh ấy đâu bằng cái giá lạnh trong lòng, phải không anh?

Và rồi “Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay”.. vẫn là hoa xoan ngày cuối xuân, nhưng giờ đây “Hoa xoan đã nát dưới chân giày”, hoa xoan nát như mối tình lỡ hẹn của em. Đọc câu thơ này nghe buồn tưởng chừng muốn bật khóc. Khổ thơ cuối, giọng em trở nên tha thiết, mong đến hội năm sau để lại gặp anh

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Ðặng đi ngang ngõ

Ðể mẹ em rằng hát tối nay?

Chẳng biết rồi em có gặp được anh không? Nhưng cái xuân tình ấy đã trôi đi theo những giọt mưa xuân, đã nát như những cánh hoa xoa dưới gót giày bởi “Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày”. Đọc lại bài thơ này lại thấy nhớ quê nhà da diết. Đã lâu lắm rồi mình chẳng được nhìn “hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy” nơi quê nhà nữa, biết bao giờ lại được nhìn cảnh này nhỉ?

Bình luận Thủy Hử – Phần 2: All are brothers? Thế thiên hành đạo, sao mà nực cười…

Như tôi đã phân tích ở phần trước, cái thất bại đầu tiên của Thi lão tiên sinh Kame, tên thật là Thi Nại Am là việc dựng lên hàng loạt nhân vật như những bức tượng đá vô hồn chỉ đáng đem cất vào tủ cho anh hùng tứ xứ cúi lạy và ca tụng. Cập Thời Vũ Tống Giang chẳng đang đem làm anh chàng chạy bàn trong quán của Lưu Huyền Đức, Trí Đa Tinh Ngô Dụng có thể tạm đem làm anh chàng hàng xóm láu lỉnh cạnh nhà của Gia Cát Khổng Minh để học mót vài món nghề đâm bị thóc chọc bị gạo, Đại đao Quan Thắng chẳng qua chỉ là thằng hề bắt chước Quan Vũ bằng cách đeo bộ râu dài, đem son phấn của vợ tô mặt đỏ, vác cây đại đao và cưỡi ngựa xích thố của bọn hàng giết mổ gia súc, Lý Quỳ có chăng có thể là hâm mộ Trương Phi mà có bộ mặt đen sì nhưng lại vô cùng kém cỏi trong việc phân biệt phải trái…

Thực ra thì bọn họ vẫn gọi nhau là anh em, nào là Tống Đại ca, rồi Võ hiền đệ… Bốn biển là nhà đấy chứ? Ôi, nhưng tôi lại nhận ra một sự thật phũ phàng của cái đám tượng đá vô hồn ấy. Một thứ anh em vô cảm, một đám ngày đêm kêu nhau là huynh đệ mà chẳng ai dám thừa nhận rằng mình đã hùa theo cái đám dở hơi kia để được thiên hạ gọi là “anh hùng hảo hán”.

Chúng tôi vẫn đùa nhau một câu là “thân đến mức thân thằng nào thằng ấy lo”. Anh em Lương Sơn thì lại không thân nhau kiểu đó, mà thân thiết kiểu ép nhau lên Lương Sơn, dồn nhau vào chỗ cùng đường để làm giặc cướp. Một gã được thiên hạ gắn cho cái mác “Cập Thời Vũ” – tức là như cơn mưa đến lúc trời khô hạn khi muốn kéo một vị tướng quân triều đình là Tần Minh (kẻ có danh hiệu cực kêu là Tích Lịch Hỏa – nghe đã thấy phát ngốt) theo phe của mình đã cho người đóng giả Tần Minh, kéo quân vào thành đốt nhà, giết người, tàn sát dân chúng đổ tội cho Tần Minh. Cái kết cục tất yếu của việc đó là cả nhà của Tần Minh bị chết oan uổng, kể cả vợ đẹp con khôn, khiến cho Tần Minh từ chỗ công danh đề huề, vợ đẹp con khôn trở thành kẻ nhà tan cửa nát, cùng đường, và bị dụ dỗ đi theo lũ giặc cướp. Sau đó lại còn phải cảm tạ Tống Công Minh đã ép gả cô em gái của Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh cho mình. Eo ơi, nghe sao mà khiếp. Phải chăng Tống Công Minh sẽ đem Tần Minh đến một sứ thần tiên? Không đâu, cái anh Tích Lịch Hỏa ấy cúc cung tận tụy phục vụ vị Tống Đại ca – Hô bảo nghĩa ấy làm giặc cướp chống triều đình, sau đó lại bị chính cái vị thủ lĩnh ấy bắt phải quay trở lại quỳ gối khom lưng theo triều đình – nơi mà trước đó bọn họ bảo toàn là hôn quân, gian thần, để rồi sau đó lại chết thảm nơi đất khách quê người.

Một Từ Ninh đang làm quan, sống đàng hoàng với vợ con, chỉ vì các “anh em” Lương Sơn muốn biết cách đánh câu liêm đã dùng kế ăn trộm áo giáp quý của ông ta để ép ông ta lên Lương Sơn, lại bị ép thành giặc cướp.

Đau đớn nhất là vị có cái tên cực kêu Ngọc Kỳ Lân Lư Tuấn Nghĩa. Đang là một điền chủ giàu có và đầy quyền thế thì bị một người (cũng xưng nhau là anh em) biệt danh là Trí Đa Tinh, tên thật là Ngô Dụng lừa mưu mời lên Lương Sơn, sau đó lại dùng kế đâm sau lưng vu cho ông ta mưu phản khiến cho ông ta nhà tan cửa nát, bị kẻ khác chiếm mất hết tài sản, lại phải lên Lương Sơn. Cái kết cục của vị Ngọc Kỳ Lân này mới thảm làm sao. Bị “đám anh em” kia dụ dỗ thành giặc cướp chống triều đình, sau đó lại phải quay lại làm nô tài cho triều đình và chết đứt ruột vì ăn cơm có trộn thủy ngân.

Đáng thương cho một Lâm Xung, võ nghệ siêu quần, bị Ngô Dụng, Tiều Cái đẩy vào chỗ bất nghĩa, giết chết bạn hữu (Vương Luân), sau đó lại chính những người anh em kia lại cười khẩy mà ngồi lên ghế trên, còn Lâm ta phải ngồi ở dưới. Tôi không hiểu sao lúc đó anh em Tiểu Cái, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng… có thể mặt dày mà chiếm cái ghế đó từ tay Lâm Xung. Cuộc đời của Lâm Xung mới thật bi thảm làm sao. Nhà tan cửa nát phải lên Lương Sơn, muốn có một chốn tự do, mọi người coi nhau là anh em, nhưng rồi lại chính những người anh em đó lại mang ông ta trở lại cái chốn đau thương xưa, lại phải khom lưng đi hầu những kẻ thù cũ (Cao Cầu), rồi mang bệnh mà ốm chết trong sự uất ức tột cùng. Có thể nhớ đến hình ảnh Lâm Xung đấm chết ngựa rồi thổ huyết chết ngất khi Cao Cầu được Tống Giang xun xoe, rồi đưa về triều.

Ôi, chắc chỉ có những “anh em” như ở Lương Sơn mới có kiểu ép nhau làm giặc cướp, bày tỏ sự kính mến với nhau bằng cách làm cho nhau nhà tan cửa nát để theo mình. Và để che đậy cho cái sự cưỡng ép nhau đó, người ta lại đi lừa phỉnh bằng một câu là “Bị triều đình ép lên Lương Sơn”. Nhưng kỳ thực trong số 108 vị giặc cướp Lương Sơn có vô số các vị “hảo hớn” chưa hề bị ai ép mà bị chính các anh em của mình ép. Ai nói Tống Giang là “Cập Thời Vũ”, là “Hô Bảo Nghĩa”? Theo tôi nhân vật này cần đáng xét lại, ông ta không chỉ đơn giản như thế. Làm bộ tịch từ chối không lên Lương Sơn, muốn làm đứa con hiếu nghĩa, muốn tận trung triều đình nhưng rồi lại chễm chệ ngồi ghế cao nhất để chống triều đình, rồi sau đó cầm quân đánh dẹp khắp các anh hùng hào kiệt khác cạnh tranh với mình. Phải chăng Tống Giang có chí lập công lớn để có trong tay thiên binh vạn mã mà soán ngôi? Ai mà biết!!

Vâng, và còn hơn cái gọi là “anh em” ấy là sự phân biệt quen biết, sang hèn. Anh chàng Quan Thắng vì con nhà dòng dõi nên nhất định sẽ chiếm ngôi vị chánh tướng cho dù anh chàng này đánh trận thua lả tả bị bắt sống, lại còn cúi đầu hàng phục, Lý Quỳ chỉ là kẻ thô lỗ, không có đầu óc thì nằm ở hàng chánh tướng chỉ vì hắn cúc cung tận tụy ôm gối Tống đại ca, còn người nghe tên cực kêu là “Thần cơ quân sư Chu Vũ” vì chỉ là giặc cỏ nhỏ nhoi theo về nên cũng chỉ làm lèm nhèm ở phó tướng, Lưu Đường ở tới b�
��c 21 là vì chơi thân anh em đầu lĩnh Tống, Tiều… Cấp bậc ở Lương Sơn là một sự phân biệt sang hèn, phân biệt xuất thân và phân biệt sự quen biết với mấy bác đầu lĩnh ban đầu. Nói trắng ra là nếu 108 vị đều là anh hùng hảo hán, coi nhau như anh em ruột thịt thì cần gì phải phân cấp tới bậc 108 thế? Chỉ cần bầu ra vài vị thủ lĩnh, còn lại thì đâu cần phân biệt sang hèn… Nếu như là triều đình quan tướng thì coi nhau bậc trên bậc dưới cũng đành. Ví như anh chàng Lưu Huyền Đức có lên ngôi vua rồi mới dám phong cho 5 ông tướng giỏi nhất, công trạng lớn nhất là Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Mã Siêu làm Ngũ hổ đại tướng. Có thể thấy ngay cả anh chàng xuất thân tầm thường như Hoàng Trung vì lập đại công nên vẫn cứ lên hổ tướng như thường. Trước khi ông ta lên ngôi vua thì ngoài quân sư Gia Cát, thì Quan hay Trương hay Triệu cũng là những võ tướng như nhau, cùng cấp bậc với những Ngụy Diên, Hoàng Trung… Tôi so sánh điều này để nói rằng thực ra cái Lương Sơn đó chỉ là anh em gia đình trá hình, thực tế là một dạng triều đình mà ở đó sự quen biết, dòng giống xuất thân… là một recommendation letter vô hình để nắm giữ chức vụ cao. Khi cúi đầu về phục vụ triều đình, Tống Giang có thể mặt dày nhận chức vụ của triều đình (cùng với anh chàng kỳ lân rẻ tiền Lư Tuấn Nghĩa nhận chức), còn để cho “anh em” của mình ra sống vào chết mà không được một phong thưởng nào.

Cái lá cờ “Thế thiên hành đạo” mới gọi là nực cười làm sao! Ngay để “thế thiên” dụ dỗ, ép buộc anh chàng Tần Minh làm giặc cướp, “hành đạo” sẽ là việc đốt nhà, giết người khiến dân thành Thanh Châu ra ma, cả nhà Tần Minh đi đời. Hành đạo là việc cứu một anh em, cho Chúc gia trang phơi đầy thây ma. Tống Giang nghiễm nhiên tự giương lên lá cờ đó, và default cho rằng Lương Sơn là một chốn nhất thiên hạ, ai chống lại có nghĩa là chống lại Trời, và lập tức đám giặc cướp này sẽ nghiễm nhiên tới trước tiên là cướp thành, đốt nhà, giết người. Để cứu một anh “Tống Công Minh”, Lý Quỳ tay hai ngọn búa, ào ào vào thành gặp ai chặt đầu người đó. Kiểu “hành đạo” này cũng giống như một số chuyện cười mà người ta hay đặt ra để đùa mấy phim action kiểu Mỹ: cứu một anh binh nhì, cho cả tiểu đoàn đi đời.

Một Sử Văn Cung dám cùng với anh em Tăng Đầu thị nhăm nhe lập cõi riêng, không chịu theo Lương Sơn, thế là bị tóm cả đoàn. May mắn thay, anh chàng Tiều Cái chưa kịp hưởng hết niềm hân hoan làm vua một cõi thì bị Sử Văn Cung lỡ tay bắn chết, và thế là cả đám Tăng Đầu thị cũng theo đó đi đời. Chúc gia trang còn thảm hơn. Ăn trộm ngựa của “bọ”, đã thế còn “hung hăng” lập cõi riêng, họp báo tuyên bố toàn thiên hạ không chịu cúi đầu Lương Sơn, thế là dù có võ trang đến đâu cũng chẳng thể chịu nổi đòn của đám giặc cướp. Cả thôn đi đời nhà ma…

Finally, có thể nói rằng Thủy Hử là chuyện đỉnh cao của những thất bại: thất bại từ giá trị văn học đến các giá trị nhân văn. Thất bại của văn học là sự kém cỏi trong việc xây dựng nhân vật, kém cỏi trong trong việc tạo ra tình huống, cốt truyện, vô cùng kém sáng tạo, không những thế dập khuôn mẫu người của Tam Quốc, mà lại dập khuôn một cách vô cùng kém tắm. Có thể nói nếu Quan nhị ca có hiển thánh ở đời Thủy Hử chắc sẽ đập chết thằng cháu bụng bự Đại Đao, tát vỡ mặt thằng mạo nhận “Mỹ Nhiệm Công” Lôi Đồng, Trương Phi thì đá đít thằng cu Lý Quỳ xuống ao, còn bác Gia Cát thì vuốt râu đánh rắm vào gã Trí Đa Tinh kém cỏi… Các giá trị nhân văn bị xóa bỏ bởi việc tàn sát, giết người một cách vô nhân đạo. Có thể nói đám 108 anh hùng hảo hớn Lương Sơn chỉ là một lũ giặc cướp không hơn không kém, và để thanh minh cho vụ đó, nào là thế thiên hành đạo, nào là bị ép lên Lương Sơn. Không, không ai ép cả, mà người ép họ là bác Thi Nại Am mà thôi.

Bình luận Thủy Hử – Phần 1: Đỉnh cao của sự kém cỏi trong nghệ thuật xây dựng nhân vật

Tam Quốc diễn nghĩa, Tây Du Ký, Thủy Hử, Sử ký Tư Mã Thiên, Đông Chu liệt quốc là những tác phẩm văn học Trung Quốc được tôi đọc từ hồi còn bắt đầu học đánh vần cho đến tận bây giờ vẫn còn nghiền ngẫm. Nói chung Tam Quốc, Đông Chu, Tây Du Ký và Sử ký luôn là những tác phẩm mà tôi tâm đắc. Mặc dù Thủy Hử cũng thuộc nhóm chuyện yêu thích nhưng từ nhiều năm nay, trong tôi luôn có những băn khoăn về tiểu thuyết này, băn khoăn về việc không rõ nó có đúng như những gì mà người ta ca tụng không. Sau một thời gian bình luận cùng vợ yêu, tôi đã quyết định mạnh dạn bày tỏ những suy nghĩ của mình về tiểu thuyết này và có thể bạo gan mà đưa ra một kết luận “Thủy Hử – Đỉnh cao của sự kém cỏi trong nghệ thuật xây dựng nhân vật” – một thất bại của Thủy Hử trong lòng tôi.

Nhân vật là trái tim của bất kỳ tiểu thuyết nào, dù là võ hiệp, tình ái, lịch sử… Kể cả đến film sex, chỉ cần 2 nhân vật với những hành động lặp đi lặp lại vẫn cần có nhân vật. Và việc trang điểm cho các nhân vật đó luôn cần được quan tâm – văn học gọi là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Tác phẩm có thành công hay không có tới 70% là nhờ vào việc xây dựng thành công những hình tượng nhân vật. Ta có thể ví dụ những cách thức xây dựng nhân vật dù rất đơn giản mà cực kỳ đắt giá. Ví dụ như Tư Mã Thiên khi miêu tả Hạng Vũ kiêu hùng, nhất định bên cạnh sẽ có một Bái Công Lưu Bang vô lại mà lại biết lấy lòng người. Một Hạng Vũ anh dũng đánh trăm trận trăm thắng, sức khỏe vô song, tàn sát đến mức “chư hầu sợ phải cúi đầu lê gối mà không dám ngẩng đầu nhìn”, một Hạng Vũ có lòng nhân từ thương yêu tướng sĩ, ai bị thương thì khóc… Nhưng vị Hạng Vũ đó càng tuyệt vời bao nhiêu thì càng khiến cho người ta thất vọng bấy nhiêu: đánh trận giỏi đến nỗi đi đến đâu tàn sát người vô tội đến đó, nhân từ thương tướng sĩ đến độ tướng sĩ lập được công trạng thì lại tiếc tiền của, chức tước chẳng dám ban thưởng cho ai, nhân từ thương người đến độ chẳng thèm tin một ai, có một Phạm Tăng quân sư tài năng mà chẳng biết dung… Và một Bái Công vô lại ham cờ bạc rượu chè, mê gái ban đầu như thế mà càng về sau càng khiến cho người ta mơ ước: biết lấy lòng dân, bảo vệ dân chúng, không tiếc tiền của, chức tước ban thưởng cho người có công, biết sử dụng nhân tài khiến cho các tướng giỏi của Hạng Vũ đều theo về: Hàn Tín, Trần Bình, Bành Việt, Kình Bố… Cái cách so sánh cặp nhân vật Hạng Vũ – Lưu Bang là một thành công điển hình của kiểu văn học sử.

Hay trong văn học Việt Nam, ta có thể bắt gặp những cách thức xây dựng nhân vật cũng rất thành công, tôi nói ví dụ tác phẩm trong những thập kỷ gần đây là Mảnh đất lắm người nhiều ma của nhà văn Nguyễn Khắc Trường (ai chưa đọc chuyện có thể nhớ lại bộ phim truyền hình Đất và Người phát trên VTV mấy năm trước). Một Trịnh Bá Thủ mưu mô thâm trầm, mật ngọt chết ruồi, là đối thủ kinh người của Vũ Đình Phúc – người đứng đầu dòng họ Vũ cũng gian ngoan chẳng kém mà cứ nằm trong xó tối đẩy cái mâu thuẫn lên cao. Và đứng một phía của sự kình địch của hai dòng họ ấy là một Trịnh Bá Hàm, Hàm thọt, điển hình cho một hình mẫu nông dân Việt Nam: tiểu nông mà thâm hiểm, quyết liệt trong đấu đá mà cũng mạnh mẽ đến lạnh lùng ở … trên giường. Bên dưới Hàm là một bà Son sống lay lắt như một cái bóng ma vật vờ nhờ “hương khói” ban ơn của Hàm, nhưng vẫn đẹp một cách lạ lùng…, hay một nhân vật Chu Văn Quềnh chán ngắt đến độ tác giả phải cho chết ngay từ chương đầu.

OK! Lai giai mãi mà vẫn chưa đề cập đến Thủy Hử. Thi Nại Am xây dựng Thủy Hử với 108 vị anh hùng hảo hán và hàng loạt các nhân vật phụ không phải hảo hán, có thể là những võ sư bình thường (ví dụ như giáo đầu Vương Tiến, thầy dạy võ của Cửu Văn Long Sử Tiến), hay các tham quan vô lại kiểu như Cao Cầu… Trong số 108 vị, chia ra làm hai nhóm là các Chánh tướng (Thiên cang – 36 vị) và các Phó tướng (Địa sát – 72 vị), với nhiều kiểu xuất thân: người thì là dòng dõi cao quý (ví dụ như Lư Tuấn Nghĩa, Quan Thắng…), người thì chỉ là loại đầu trộm đuôi cướp (Thời Thiên, Bạch Thắng…), quan lại triều đình (Tống Giang, Tiểu Cái, Lâm Xung, Dương Trí…), hay những anh tự do như Võ Tòng, Dương Thanh…

Nếu như đọc đoạn đầu, ta thấy Lỗ Trí Thâm xuất hiện quả là hảo hán bao nhiêu (vì bất bình đánh chết Trịnh Đồ để cứu cha con Cao Thúy Liên) thì sau đó lại thấy hảo hán này lại như chìm nghỉm vào trong biển “108 vị anh hùng hảo háo toàn các vị xuất thân cao quý”, và cho đến lúc chết mới để lại dấu ấn là việc tạc hóa viên tịch bên sông Tiền Đường. Một người được xưng tụng là “Trí Đa Tinh – Gia Cát tái thế – Ngô Dụng” tưởng như sẽ là một vị tuyệt thế thông minh, mưu trí hơn người nhưng lại vô cùng kém cỏi và tầm thường. Ngoài việc bày kế trộm châu báu từ tay Dương Trí rồi chạy lên Lương Sơn, ông ta cũng chẳng biết làm gì hơn. Cả bọn Tiểu Cái, Ngô Dụng khi thấy Lâm Xung bất bình trước chủ cũ là Vương Luân, chẳng những chẳng phơi bày gan ruột của hảo hán, lại còn chọc ngoáy (đừng nhầm là khích) khiến cho nội bộ lục đục, đẩy Lâm Xung vào chỗ giết bạn hữu (người ngoài có thể nhầm là Lâm Xung giết Vương Luân vì ham tiền bạc từ Tiểu Cái). Sau đó nghiễm nhiên tập đoàn Tiều Cái tự tiện chiếm toàn bộ ngôi đầu: Tiều Cái, Ngô Dụng, Bạch Thắng, Lưu Đường… Thế là cái hình tượng đẹp đẽ về một Tiều Cái ngạo nghễ, phải trái phân minh thành ra tan vỡ.

Cái thất bại lớn nhất của Thủy Hử trong việc xây dựng nhân vật là bác Thi đã không biết làm thế nào để tả cái “anh hùng” của các nhân vật, mà lại tai hại hơn, bác ta lại cứ đi mải miết mô tả chi tiết cái anh hùng của bọn “râu ria”, ví dụ như nào là Võ Tòng đả hổ trên đồi Cảnh Dương, rồi say rượu đánh Tưởng Môn Thần… và chìm vào hàng ngũ vai phụ, thì những bác chiếm quyền to như Tống Giang
, Tiều Cái, Lư Tuấn Nghĩa… chẳng có điều gì đáng so với những cái tên quá kêu của họ, nào là “Cập Thời Vũ”, “Ngọc Kỳ Lân”… Nếu như tác giả “dựng” lên một Tống Giang được anh hùng giang hồ hâm mộ đến khao khát được gặp (ví dụ như Võ Tòng chỉ mong được gặp một người trên đời là Tống Giang) thì lại chưa bao giờ ông ta mô tả Tống Giang đã làm những điều gì đáng để anh hùng hâm mộ. Thử điểm xem: ngoài việc báo tin cho Tiều Cái, cho tiền Diêm Bà để đổi lấy việc giết chết Diêm Bà Tích,… ta chưa từng gặp một việc gì Tống Giang làm để cứu nhân độ thế, tương xứng với cái tên “Cập Thời Vũ – cơn mưa đến kịp thời”. Ví dụ như so sánh với Lưu Huyền Đức trong Tam Quốc, nào là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương, cháu xa của Hiếu Cảnh hoàng đế (xuất thân Hán tộc), thì sau đó nào là khởi nghĩa đánh giặc Khăn Vàng, đào viên kết bái, làm quan huyện thanh liêm cứu dân, đối xử với các tướng thật bụng mà hết lòng, lại hết lòng dốc sức vì nhà Hán, có chí lớn… khiến cho đến Tào Tháo cũng gọi là “Anh hùng thiên hạ chỉ có sứ quân và Tháo này thôi”. Khi ông ta đã lập công danh vang dội rồi mà Ngô Quốc Thái của Đông Ngô vẫn phải qua việc gặp mặt, nói chuyện mới thực gọi ông ta là anh hùng. Có nghĩa là cái anh hùng của Lưu Bị không tạo ra qua tin đồn, mà chỉ tạo ra khi người ta tiếp xúc với ông ta. Ngược lại, Tống Giang được coi là “Cập Thời Vũ” (chẳng qua là được gán cho mà thôi), thế mà vì việc lôi kéo Tần Minh theo phía mình, đã cho người giả dạng Tần Minh đến đốt nhà, đánh thành, giết người… khiến cho quan huyện nhầm tưởng là Tần Minh, đem vợ con Tần Minh ra chém sạch, khiến cho Tần Minh từ chỗ đang là một người được triều đình trọng dụng lại thành ra tan cửa nát nhà. Mà việc này là do Tống Giang gây ra chứ chẳng phải do hôn quân bạo chúa nào. Và cái hình tượng Tích Lịch Hỏa Tần Minh cũng nhanh tróng sụp đổ, khi ngoan ngoãn đi theo Tống Giang, còn hớn hở mừng rỡ khi được dụ dỗ sẽ gả cho cô em gái trẻ đẹp của Hoa Vinh quên hẳn cái đau buồn vợ con vừa bị giết. Chỉ riêng cái chi tiết này đã khiến cho cái “Cập Thời Vũ” của Tống Giang đáng trở thành “Cập thời bão”.

Lại buồn cười hơn, một người như Tiểu Toàn Phong Sài Tiến, nuôi giấu các anh hùng hảo hán, ai cũng được ông ta cứu giúp thì lại bị coi là thua xa anh chàng Tống Giang.

Một điều hết sức sai lầm của Thi Nại Am là việc ông ta gán cho các vị hảo hán những cái tên quá kêu, kêu đến độ không tin nổi, và rồi những hành động chả có chút gì là anh hùng của họ khiến cái hình tượng đó bị sụp đổ. Nào là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ gặp ai giết người đó, hay nào là Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận sống trên sông Tầm Dương giết người bằng hai món “dao phay” và “bánh trần”, hay Đại Đao Quan Thắng chỉ ra trận có một lần, bị Lương Sơn dụ dỗ, thế là bỏ chủ theo lên Lương Sơn, rồi là vợ chồng Thái Viên tử Trương Thanh hàng ngày giết thịt người làm bánh bao nhân thịt người, một Dương Hùng nghe vợ quên bạn,… Có nghĩa là ở trong Thủy Hử, hình tượng nhân vật được hình thành qua cái mỹ danh được mặc định gán cho chứ không thông qua hành động thực, mà ta chẳng thấy được cái hảo hán thực sự ở đâu. Các nhân vật nào là quỳ lạy, nào là bái phục nhau chẳng qua là qua danh hiệu. Tống Giang được mặc định gắn cho cái “chân mệnh thiên tử”, mà chẳng ai thấy được cái “chân mệnh” đó ở đâu ngoài cái việc nghiễm nhiên 100% nhân vật khác nghe như nghe lời bố.

Nói tóm lại, xây dựng nhân vật là một thất bại thê thảm của Thủy Hử. Ngoài các nhân vật xuất hiện ở những đoạn đầu: Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Dương Trí, Hoa Vinh…, còn lại quá nửa các nhân vật còn lại được dựng lên một cách hết sức lãng nhách và hời hợt.

Và cái lớn hơn trong cái tinh thần ấy là “tứ hải giai huynh đệ”, một lời phỉnh phờ đáng phì cười, sẽ được phân tích ở lần sau!!

Tây Du Ký – Sự đấu tranh của con người với các thế lực thần quyền (Phần 5)

Tôn Hành Giả gặp Tam Tạng đầu tiên và đương nhiên Hành Giả trở thành đại đồ đệ của Tam Tạng rồi. Hơn nữa Hành Giả cảm cái nghĩa Đường Tăng đem lại tự do cho mình nên hết lòng hết dạ phò Đường Tăng sang Tây Thiên thỉnh kinh. Đừng ai nói rằng Tôn Hành Giả giác ngộ đạo Phật thành tâm cùng Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh nhé, tôi chẳng tin.

Hai thầy trò vừa kết nghĩa đã gặp trắc trở. Tôn Hành Giả vì bảo vệ thầy, chỉ khẽ huơ gậy đã tiêu diệt cả đám giặc cướp khiến Đường Tam Tạng nổi giận. Tam Tạng có cái tâm của nhà Phật, không nỡ sát sinh, nên không tán thành cho Hành Giả sát sinh thế, liền đùng đùng nổi giận mắng nhiếc và đuổi Hành Giả, còn Hành Giả thì cũng chưa hết cái ngang ngạnh xưa, đùng đùng nổi giận bỏ luôn về Hoa Quả Sơn nơi Đông Thắng Thần Châu. Và đây là cái hé mở để chúng ta thấy Tôn Hành Giả bị ép trở thành Phật chứ cũng chẳng phải tự thân gì, có nghĩa là anh chàng này cũng bị ép theo số phận mà thôi. Đức Phật Tổ tưởng chừng khai sáng cho con người ta tự mình giác ngộ theo đạo, nhưng cũng đã chuẩn bị trước cho Quan Âm Tôn giả 3 vòng kim cô để khống chế bất kỳ ai, và Tôn Hành Giả là đối tượng đầu tiên, và còn bị lừa đội chiếc vòng kim cô đó, để rồi “chiếc vòng như mọc rễ vào đầu, dù cậy cũng chẳng ra, dùng cả cần thiết bổng cậy cũng chẳng được“. Chỉ một bài thần chú khiến cho Tôn đau đầu nhức óc, không chịu nổi phải một lòng theo Đường Tăng. Ta hãy nhớ một câu chuyện giai thoại về Phật Tổ:

Có một nhà tu hành khoe với Phật Tổ rằng ông ta hành xác 30 năm tu hành để tu luyện bản lĩnh có thể qua sông với đôi chân trần mà không cần thuyền bè. Đức Phật mỉm cười “Sao ngươi u mê vậy? Sao ngươi mất những 30 năm tu hành trong khi ta qua sông chỉ mất có 3 xu tiền đò!“. Câu chuyện ấy muốn nói rằng đạo Phật chỉ hướng con người ta theo đạo theo tinh thần giác ngộ chứ không phải do sự cưỡng bách hay hành xác nhưng với Tôn, nó lại hoàn toàn ngược lại. Tôn đến với đạo Thích chẳng qua con đường giác ngộ cũng chẳng qua hai chữ “cơ duyên” mà lại qua con đường “cưỡng ép”.

Chuyến du hành về Tây phương của thầy trò Đường Tăng là còn bao gồm cả hàng loạt người bị ép theo cái guồng số phận ấy.

Sa Ngộ Tĩnh: Vốn là Quyển Liêm tướng quân trên Trời, vì chót làm vỡ chén ngọc của Vương mẫu mà bị đày xuống phàm trần, phải thành một cô hồn dã quỷ ở bên sông Lưu Sa. Lại một lần nữa, ta lại thấy cái thế giới “Thiên Đình” ấy sống vô tình làm sao. Một tướng quân, chỉ vì nỡ tay đánh vỡ một cái chén ngọc lưu ly, thế là lập tức bị đày. Ngọc Hoàng anh minh là thế, mà còn coi trọng cái chén ngọc hơn là một vị tướng. Chẳng thế mà ông ta bị thua một cách nhục nhã trước một chú thạch hầu chưa tu chọn kiếp, đơn giản là vì coi của quý hơn người. Không những thế, Ngọc Hoàng còn gia hình kinh khủng hơn, Sa Ngộ Tĩnh không những bị đày thành cô hồn dã quỷ ở Lưu Sa hà, mà còn định kỳ bị kiếm đâm đau đớn. Ngô Thừa Ân vẽ ra cái thế giới Thiên Đình như một sự mỉa mai cái thế giới vô tình ấy, như muốn kể với chúng ta một thế giới thực của vua chúa thời xưa: đầy rẫy bất công, vô tình, sống đầy câu nệ và trói buộc tự do của con người biết bao nhiêu. Và chỉ có những con người như Tôn Đại Thánh mới đủ dũng cảm để vùng lên đòi đạp đổ cái thế giới đó, nhưng rồi cũng không qua nổi bàn tay Phật tổ, như Nguyễn Du đã từng viết rằng “Ngàn năm ai có khen chi Hoàng Sào” (Truyện Kiều). Thực tế Sa Ngộ Tĩnh là nạn nhân của sự ra oai của Ngọc Hoàng mà thôi, sau khi thất bại nhục nhã dưới tay Tôn Đại Thánh, Ngọc Hoàng cũng muốn ra oai để át đi cái nhục nhã xưa mà thôi.

Trư Bát Giới: Nhân vật sống con người nhất trong năm thầy trò Đường Tam Tạng. Cái tên Bát Giới làm tôi liên tưởng đến hòa thượng Bất Giới trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, sống chẳng giới luật, yêu cả ni cô, vì ni cô mà đi tu, thì ta cũng bắt gặp một Bát Giới cũng “con người” như Bất Giới. Bát Giới vốn là Thiên Bồng nguyên soái, chỉ huy cả thủy quân của thiên đình. Bát Giới si mê nàng Hằng Nga xinh đẹp (đúng là chỉ có mấy người vô tình như Ngọc Hoàng thì mới không rung động trước sắc đẹp của nàng mà thôi), nhân lúc say rượu mò vào chỗ nàng định tòm tem. Nhân đây chúng ta có chút chuyện vui về vụ này.

Hôm đó Ngọc Hoàng vừa vui với cung nữ ra thì thấy Hằng Nga – Miss Thiên Đình khóc thút thít xin gặp, nước mắt nàng chảy dài trên gò má làm khuôn mặt vốn xinh như hoa của nàng càng trở nên kiều diễm. Nàng tâu:

– Muôn tâu bệ hạ, thần thiếp có chuyện muốn tâu. Ba ngày trước (ta nhớ là một ngày trên trời bằng 1 năm dưới hạ giới), thiếp đang lơ mơ ngủ vì đang phê thuốc, tự nhiên thấy bóng một người cao to, bụng bự chui vào phòng thiếp. Thiếp biết nó là thành phần không đứng đắn nhưng cứ để yên xem nó làm gì.

– Nó làm gì, nó làm gì? Ngươi kể nhanh lên, ta vừa xong vài làm vài chầu, buồn ngủ quá – Ngọc Hoàng ngáp dài và giục!

– Dạ! Anh Hoàng đừng có hối, chuyện này nó liên quan đến cả đời em!

– Được rồi, nào em kể tiếp đi nào!

– Dạ! Nó nhẹ nhàng mở cửa lẻn vào phòng thiếp, nó tiến về phía giường thiếp và ngồi xuống cạnh thiếp, cầm lấy bàn tay lạnh giá của thiếp. Thiếp biết nó là thành phần không đứng đắn nhưng cứ để yên xem nó làm gì.

– Trời! Nó làm gì, sao người Andi Câu giỏi thế. Ngươi có biết có bao nhiêu con bạc đang đợi ta vào chiến nốt không? Đang dở ván tá lả!

– Dạ! Chuyện này liên quan đến cả đời em! Anh đừng có hối!

– Thôi nào bé cưng, kể nhanh lên nào…

– Bẩm vâng! Nó cầm tay thiếp, lại đưa tay vuốt má, rồi cầm vào bàn chân của thiếp.. hic hic! Ôi, chết mất! Thiếp biết nó là thành phần không đứng đắn nhưng muốn bắt quả tang nên cứ để yên xem nó làm gì..

– Thôi nào, ngươi có thôi ngay cái điệp khúc đó không? Nhanh lên!

– Dạ dạ! Rồi nó khẽ cởi áo thiếp, thiếp cứ nằm yên để bắt quả tang xem nó làm gì, nó vừa cúi xuống hôn thiếp, thò tay xuống định kéo quần thiếp ra, thiếp định để yên để bắt quả tang, nhưng không ngờ lúc đó con ranh Thỏ Ngọc đi lạc vào phòng làm nó sợ quá bỏ dở chạy mất. Thiếp lôi lại không được, nhìn kỹ ra hóa ra là Thiên Bồng Nguyên Soái.. hic hic… Thiếp xin…

– Ngươi muốn ta trừng trị tên dâm tặc này chứ gì? Người đâu…

– Dạ thiếp đâu nỡ thế! Thiếp chỉ muốn nhờ Ngọc Hoàng phái anh Na Tra đi tìm Nguyên Soái về đây, hỏi xem mấy hôm nay ngày nào thiếp cũng mở cửa đợi mà sao anh ấy không dám đến nữa!!!

Ặc ặc!!!

Ngọc Hoàng nghe thế cú lắm, té ra thằng Thiên Bồng này nó cao thâm hơn mình! Bố mày không tha nữa, cho mày làm kiếp bẩn thỉu!

Trở lại với nhân vật Trư Ngộ Năng của chúng ta. Phạm tội tày đình với nàng Hằng Nga xinh đẹp khiến chàng ta bị đầu thai thành lợn. Cách đầu thai một cách hết sức ngớ ngẩn của Ngọc Hoàng khiến cho anh chàng này trở thành một nhân vật hết sức “con người”: ham ăn, ham uống, mê cái đẹp, thích nhàn nhã, thích hưởng thụ, lười lao động, ngại vượt khó. Đó cũng là những hình ảnh tiêu biểu của nhiều con người mà Ngô Thừa Ân lấy Trư Bát Giới làm đại diện. Vì thế mà việc đạt cái mục đích cuối là trở thành một đệ tử phật gia là một cố gắng lớn cho anh chàng này và cũng là hoàn toàn phù hợp với anh chàng này: trở thành Tịnh Đàn Sứ giả, như một sự hưởng thụ đầy thoải mái sau một chuyến đi dài vất vả.

Nếu ta xem xét kỹ, ta thấy rằng hai nhân vật Bát Giới và Sa Tăng hoàn toàn thua xa Tôn Hành Giả, có nghĩa là nếu có đi tu tiên, thì hai anh chàng này cũng chỉ lên đến bậc thần thánh là hết cỡ, còn Tôn Hành Giả mang trong mình cốt tiên (Thiên đình gọi Tôn Đại Thánh là Thái Ất Tôn Ngộ Không) có thể tự mình vươn đến đỉnh cao giác ngộ và đạt thành quả cao. Ta hãy nhớ là trong các bậc tu hành Lão giáo thì Tiên là bậc cao nhất, tự mình định đoạt số phận của mình, không còn trong vòng luân hồi (cũng giống như vươn lên hàng Phật trong Phật giáo). Còn thấp hơn là Thần và Thánh, xuất phát từ 2 hạng người: những người nhân gian có đức chết được phong thần thánh, hay nhữngngười tu tiên chưa đủ đức hạnh, họ đều bị trở thành thần thánh để cho nhà trời sai bảo, hay là một dạng ôshin cho Ngọc Hoàng mà thôi. Và sau này, Tôn Hành Giả trở thành Phật, còn hai anh chàng kia chỉ lên hàng La Hán (như Sa Tăng) và Sứ giả (Bát Giới) là hết cỡ.

Lại một anh chàng khác bị ép vào cái số phận đó là Bạch Long Mã, hay chú ngựa mà Đường Tăng vẫn tọa. Anh ta nguyên là Thái tử của Tây Hải Long vương Ngao Thuận, vì say rượu làm đổ đồ châu báu mà cũng bắt tội, phạt treo ngoài Tây Hải, và cuối cùng cũng phải mang thân rồng trong xác ngựa, chở Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, cùng bị cuốn vào vòng xoáy số phận…

(Còn nữa…)

Tây Du Ký – Sự đấu tranh của con người với các thế lực thần quyền (Phần 4)

Thế là Tôn chính thức được “giác ngộ cách mạng”. Năm trăm năm cô quạnh dưới Ngũ Hành Sơn thật bằng cả 500 ngàn năm với Tôn Đại Thánh. Ngài cứ âm thầm nằm đó, đói thì ăn đạn sắt, khát thì uống nước rỉ đồng, mặc cho thời gian lặng lẽ trôi đi. Tôi đã từng tưởng tượng ra cảnh Tôn Đại Thánh lặng lẽ khóc trong mưa, nhớ những ngày tháng tiêu dao hùng tráng của mình. Không hiểu Tôn Đại Thánh ân hận vì những hành động chống đối với ông Trời của mình, hay ngài hiểu ra rằng, mình có cố cũng không thoát khỏi số phận? Có lẽ vế thứ hai nhiều hơn.

Bởi thế mà Tôn liền đồng ý với Quan Thế Âm Bồ Tát sẽ phò trợ người lấy kinh sang Tây Thiên bái Phật, tu thành chính quả. Và từ đây, Tôn Đại Thánh đã chết rồi, mà thay vào đó là một Tôn Hành Giả, đang trên đường tu hành để trở thành một Đấu chiến thắng Phật! Tôi từng đọc một bình luận về Tây Du Ký trên Thư viện Hoa sen, nói rằng chi tiết vô lý nhất của Tây Du Ký là một Tôn Hành Giả với cân đẩu vân bay nháy mắt tới mười vạn tám ngàn dặm mà mất tới mười ba năm để phò Tam Tạng từ Đại Đường sang Tây Trúc. Có lẽ những người bình luận chưa hiểu hết cái triết lý tu thành chính quả, đó là Phật Tổ buộc Tôn Ngộ Không phải cùng với Đường Tăng vượt qua 81 nạn (do chính tay các thế lực của Phật tổ xếp đặt) để thử thách họ, nếu không hóa ra trở thành Phật quá đơn giản. Từ đây, chúng ta không gọi là Tôn Ngộ Không hay Tôn Đại Thánh, mà hãy gọi là Tôn Hành Giả – một người đang bị chìm dần vào số phận đã được định sẵn.

Quan Âm Tôn giả nhận lời Phật tổ sang Đại Đường tìm người lấy kinh về. Ta nói lại một chút, thực ra trước thời kỳ đó, Phật giáo đã du nhập vào “Đông thổ Đại Đường” rồi, nhưng đó là Phật giáo Tiểu thừa. “Tiểu Thừa” có nghĩa là “cỗ xe nhỏ”. Tiểu thừa được một số đại biểu phái Đại thừa thường dùng chỉ những người theo “Phật giáo nguyên thuỷ”. Tiểu thừa tập trung tuyệt đối vào con đường đi đến giải thoát. Các lí luận triết học không đóng vai trò quan trọng – chúng thậm chí được xem là trở ngại trên đường giải thoát. Tiểu thừa phân tích rõ trạng thái của đời sống con người, bản chất sự vật, cơ cấu của chấp ngã và chỉ ra phương pháp giải thoát khỏi sự Khổ. Tất cả các trường phái Tiểu thừa đều có một quan điểm chung về sự vật đang hiện hữu: khổ có thật, phải giải thoát khỏi cái Khổ. Giải thoát khỏi luân hồi, thoát khỏi sự tái sinh và đạt Niết bàn là mục đích cao nhất của Tiểu thừa. Muốn đạt được mục đích này, hành giả phải dựa vào sức mình, xa lánh thế gian. Vì vậy Tiểu thừa quan niệm phải sống viễn li, sống cuộc đời của một kẻ tu hành. Đối với Tiểu thừa, cuộc sống tại gia không thể nào đưa đến sự giải thoát. Hình ảnh tiêu biểu của Tiểu thừa là La Hán, là người dựa vào tự lực để giải thoát. Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng, phái Đại Thừa lại dùng từ “Tiểu Thừa” như một sự lăng mạ và chỉ trích.

Ngày xưa, khi đa số đệ tử của mình đều đã đắc quả La Hán, Đức Phật bắt đầu giảng giải đạo lý cao siêu hơn, sau khi tự cứu mình rồi thì hãy quay lại cứu độ chúng sinh, tức là làm bồ tát. Tức là đi từ tuần tự từ thấp lên cao. Trong kinh Phật có câu “hỡi các đệ tử của ta, các con hãy chia ra, hãy đi hết các hang cùng ngõ hẽm, đem giáo pháp mầu nhiệm để phổ độ chúng sinh”. Đại Thừa ngày nay một mực chê bai Tiểu thừa là ích kỷ, cũng chỉ vì trong số họ chưa ai tu hành đắc đạo, xóa bỏ Bản Ngã. Nếu không, họ đã biết được: khi Bản Ngã (cái “tôi”, cái “ta”, cái vị kỷ) bị diệt thì con người ta không còn ích kỷ nữa, ngược lại rất Từ Bi, xả thân cứu đời. Ngày nay, trước sự tràn lan của các tôn giáo cực đoan, lấy việc giết người làm mục tiêu, thì những tôn giáo tích cực trong đó có đạo Phật càng phải đoàn kết hơn. Không nên chia bè phái, tranh giành hơn thua. Họ nên hiểu rằng: chính Bồ Tát của Đại Thừa cũng phải tự hoàn thiện mình trước rồi mới có tư cách phổ độ chúng sinh mà để tự hoàn thiện thì phải tu theo giáo pháp nguyên thủy, cái gọi là Tiểu thừa. Vì thế việc phân chia hai cái “thừa” như thế là thừa.

Và thế là, Trần Huyền Ttrang, một con người, sinh ra đã theo Phật, dốc lòng theo sự chỉ bảo của Quan Âm Bồ Tát quyết một lòng sang Tây Phương bái Phật, đem kinh Đại Thừa về khai sáng cho Đại Đường, cứu nhân độ thế, cùng giúp chúng sinh thoát khỏi bể khổ.

(Còn nữa…)

Tây Du Ký – Sự đấu tranh của con người với các thế lực thần quyền (Phần 3)

Dĩ nhiên, ai cũng biết chắc Ngọc Hoàng chẳng thể bỏ qua cái tội khi quân phạm thượng như thế của Tôn. Ngay lập tức, 18 vạn thiên binh thiên tướng dẫn đầu là cha con Thác Tháp Thiên Vương Tiểu Cái (À nhầm, Lý Tịnh – cứ nhầm sang Thủy Hử), Na Tra Tam Thái tử, vây thành “thiên la địa võng” quanh Hoa Quả sơn, đến mức một “con ruồi cũng khó mà bay lọt”. Lần này Tôn Đại Thánh nhà ta được dịp trổ tài.

Chỉ với một cần thiết bổng, với 72 phép thần thông biến hóa, khi thì Đại Thánh biến thành 3 đầu 6 tay (và thuật ngữ “ba đầu sáu tay” chỉ những kẻ tài năng đầy mình), khi thì dùng một dúm lông nhai nát, phun ra biến thành trăm nghìn Tôn Đại Thánh đánh cho mười tám vạn thiên binh thiên tướng ôm đầu chạy tan tác. Ngọc Hoàng cay cú lắm mà chưa biết làm sao. Chẳng lẽ ta là đấng chí tôn, lại thua một con yêu hầu hay sao? Và thế là khi mà Quan Thế Âm Bồ Tát tiến cử cháu ngoại Ngọc Hoàng là Nhị Lang thần Dương Tiễn, Ngọc Hoàng lập tức gật đầu. Ta hãy nói một chút về chuyện này.

Nhị Lang thần tên là Dương Tiễn, vốn là con của em gái Ngọc Hoàng, em gái Ngọc Hoàng lấy người phàm sinh ra Dương Tiễn bị coi là phạm luật trời. Dương Tiễn sinh ra có 3 con mắt, cũng học nghệ được thất thập nhị huyền công như Đại Thánh, sử dụng cây đao ba mũi hai lưỡi với con Hạo thiên khuyển chuyên dùng để … “cắn trộm”. Vì mẹ của Nhị Lang phạm luật trời nên dù Nhị Lang (gọi Ngọc Hoàng bằng cậu) có tài phép đến đâu, lập bao công trạng trước đây, cũng không được Ngọc Hoàng coi trọng, chỉ là một ông thần nhỏ nhoi nơi trần thế, chẳng qua Ngọc Hoàng bị lâm vào thế bí, phải hạ mình nhờ ông cháu mà trước đây mình vẫn coi rẻ mà thôi. Thế mới thấy, ông Trời nắm trong tay sinh mệnh của cả muôn loài cũng chẳng sống có tình là mấy.

Dương Tiễn là đối thủ đáng kể nhất của Đại Thánh, đánh nhau với Đại Thánh một trận kinh thiên động địa, hai bên ngang tài ngang sức nhau, chẳng ai hơn được ai, biến hóa linh tinh, nếu cứ tiếp tục chắc phải mỏi mệt. Ngọc Hoàng nhân lúc Ngộ Không và Dương Tiễn còn mải choảng nhau, sai Thái Thượng Lão quân dùng chiếc vòng ném thẳng vào đầu Tôn, làm Tôn ngã quay đơ, thế là bị thiên tướng bắt sống. Đáng cười cho ông Trời oai linh, có trong tay ngàn vạn vị tiên, hàng vạn thiên binh thiên tướng, không ai đánh nổi một chú khỉ, phải giở thủ đoạn hạ lưu đánh lén với Tôn. Tất nhiên đã đánh nhau thì ai thắng thì hơn thôi. Nhưng đảm bảo rằng, vì thế mà Tôn vốn không phục cái ông Giời ấy thì nay càng bất phục hơn.

Ngọc Hoàng đem Tôn về điện Linh Tiêu, dùng các nhục hình để tiêu diệt Tôn (thật không ngờ ông Trời có lắm thủ đoạn nhục hình thế): nào đao chém (nhưng không đứt), lửa thiêu (chẳng cháy), sét đánh (không chết)…, có lẽ chẳng còn cái hình phạt tàn khốc nào mà ông Trời chưa giở ra với Tôn. Tôi thấy nực cười cho ông Giời, ông quên mất một điều, Tôn đã ra ngoài luân hồi (đã xóa tên khỏi sổ sinh tử), thì làm sao giết chết được Tôn, lại đem bao hình phạt tàn khốc với Tôn như thế, thật chẳng xứng với câu “Ông Trời vốn có đức hiếu sinh”. Thật đáng thương cho Ngọc Hoàng.

Lại còn kinh dị hơn, Ngọc Hoàng nghe Thái Thượng Lão quân bảo đem Tôn đi luyện đan trong lò bát quái thì gật đầu liền. Chẳng hiểu Ngọc Hoàng có chút tình người nào không? Dù gì Tôn cũng là một sinh linh, Ngọc Hoàng nỡ lòng nào để Lão quân luyện Tôn thành một viên linh đan, rồi ung dung bỏ vào miệng mà nhai, có khác gì ông ta đi ăn thịt chúng sinh không?

Thật may cho Ngọc Hoàng, Lão quân nung Tôn đến 49 ngày mà không chết, đơn giản vì vứt Tôn vào cung Tốn, Tốn là Gió, vì thế Tôn chỉ bị sức nóng cộng với khói thổi hun mắt, biến con mắt đen láy thông minh thành “mắt lửa ngươi vàng” mà thôi, không những chẳng giết chết Tôn, mà còn cho Tôn đôi mắt thần kỳ nhìn thấu mọi việc. Lò Bát quái của Lão quân là một lò chuyên để luyện đan, có cấu trúc theo kiểu 8 cung của Bát quái, gồm các cung mang tên như các quẻ bát quái trong Kinh dịch. Nói thêm chút về 8 quẻ này (cho oai tí) gồm: Càn (), chỉ Trời, hay theo hướng là Tây Bắc; Đoài (), chỉ Đầm, hồ, hay chỉ hướng Tây; Ly (), tức là Lửa, chỉ hướng Nam; Chấn (), tượng cho Sấm, chỉ hướng Đông; Tốn (), nghĩa là Gió, chỉ hướng Đông Nam; Khảm (), chỉ Nước, định hướng Bắc; Cấn (), nghĩa là Núi, chỉ hướng Đông Bắc; Khôn (), nghĩa là Đất, chỉ hướng Tây Nam. Còn nếu tám cửa trong trận Bát môn Kim tỏa của Gia Cát Võ Hầu thì gồm có Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai, Hưu. Nói chung cái này đọc nhiều chỉ tổ chóng mặt váng đầu, dễ đi vào tẩu hỏa nhập ma, nói tí cho có vẻ oai trí thức tí thôi.

Rõ ràng là cả Lão quân, một vị đứng đầu trong các vị tiên cũng làm ăn cực kỳ tắc trách, chỉ biết tóm yêu hầu mà ném vào lò, còn nó vào đến đâu thì không quan tâm, để nỗi không những không giết nổi Tôn Đại Thánh, trái lại còn làm cho Đại Thánh còn kinh hơn, đạp tung lò Bát quái, nhảy ra ngoài với mắt lửa ngươi vàng, trừng trừng nhìn Ngọc Hoàng làm Ngọc Hoàng rụng rời hết vía. Lúc này thì có mà đến mười ông cháu Dương Tiễn Nhị Lang thần của Ngọc Đế cũng đành dùng phép bó tay chấm com chứ làm gì nổi Tôn Đại Thánh nữa. Tôn Đại Thánh mặc sức đánh cho Thiên đình tan nát, Ngọc Hoàng oai vệ trước đây vẫn khinh thường Tôn là một con yêu hầu thì cũng phải chui vào gầm bàn mà run, rồi đành thỉnh Phật tổ Như Lai sang trợ giúp.

Phải thừa nhận rằng Phật Tổ đánh đòn cao tay hơn hết, không chơi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với Tôn Đại Thánh (vì có lẽ Đức Phật cũng hiểu trò này khó mà đấu với Tôn một cách dễ dàng được), thế là kích vào tích tự kiêu của Tôn, thách Tôn dùng một cân đẩu vân đi ra khỏi lòng bàn tay của Phật tổ. Ta sẽ nói chi tiết về việc này. Một vụ án thiên cổ, bị Phật Tổ ỉm đi để bắt Tôn thành đệ tử của mình. Chi tiết như sau:

Theo sách vở mà ta vẫn học, người con người lần đầu tiên biết Trái đất tròn cũng vào tới cỡ thế kỷ 15 gì đó (đại khái thế), tức là sau Tôn hàng vài ngàn năm. Nếu ta suy diễn chút theo Tây Du Ký, thì không phải thế, chính bác Phật Thích Ca Mâu Ni mới gọi là người biết Trái Đất tròn để lừa chú Tôn của chúng ta. Phân tích kỹ nhé!

Lúc Tôn theo Đường Tăng đi thỉnh kinh, thì đó là thời đại trị vì của Đường Thái Tông (đầu thế kỷ 7 sau CN), sau khi bị đè dưới Ngũ Hành sơn đúng 500 năm. Như vậy, lúc Tôn đang choảng nhau với Phật Tổ là đầu thế kỷ thứ 2, là thời đại nhà Đông Hán, lúc đó trung tâm của Trung Hoa là kinh đô Lạc Dương, ở vĩ độ khoảng 35 độ Bắc. Cứ vĩ độ đó ta kích lên 18 tầng trời, tức là tận cùng bầu khí quyển, tính theo cả bán kính trái đất là 6370 km. Ta sẽ tính đươc chu vi đường tròn kinh tuyến qua vị trí 18 tầng trời đúng bằng quãng đường một cân đẩu vân – mười vạn tám ngàn dặm (chú ý, 1 dặm Tàu khi đó chỉ là 1/3 km thôi, tức là một cân đẩu vân tức là 36000 km). Thế nghĩa là thế nào nhỉ? Bác Phật Tổ nhà ta để Tôn Đại Thánh lên lòng bàn tay, thách Tôn một cân đẩu vân ra khỏi tay. Có mà đến mười Tôn Đại Thánh cũng thế thôi, nhắm mắt nhắm mũi bay vèo cái, theo đúng 1 đường tròn lại trở lại vị trí cũ. Bác Phật nhà ta cứ ung dung ngồi khểnh chân uống trà đá đợi hết đúng 1 lượt Tôn lại tự quay lại chỗ cũ, thế là tóm thôi. Căn bản bác Phật cũng cú Tôn đái bậy vào tay, nên lập tức đè luôn Tôn xuống Ngũ Hành Sơn và lại dùng đạo bùa với 6 chữ “Úm ma la, bát minh hồng” đính lại (kiểu như các bác nhà ta niêm phong bây giờ ấy), thế là Tôn đành nằm đó 500 năm, đói thì ăn đạn sắt, khát thì uống nước rỉ đồng – Thực ra câu chuyện vui này tôi đã từng nêu ra cách đây 6 năm, viết trên nội san Khoa Vật lý, thành câu chuyện cười ngộ nghĩnh . Đúng là nhất nhật tại Ngũ hành sơn, thiên thu tại ngoại. Nếu muốn hiểu tâm trạng Tôn Đại Thánh lúc đó, hãy nghe bài hát trong phim Tây Du Ký của đạo diễn Dương Khiết, cực kỳ tâm trạng và rất hợp với tâm trạng của Tôn hồi đó!

Cuộc chiến giữa Tôn và ông Trời chấm dứt, dù Tôn có gây ra một cuộc long trời lở đất, khiến cho cả ông Trời phải sợ hãi, nhưng rốt cục, Tôn cũng chẳng thoát khỏi số phận. Tuy nhiên, tôi vẫn ấn tượng mãi với người anh hùng này, nhất là khi anh ta ưỡn ngực trước Ngọc Hoàng mà trả lời rằng “Có Lão Tôn đây“. Vâng, cái đó thể hiện khát vọng tự do và muốn thể hiện mình!

Và rồi, Tôn bắt đầu rơi vào số phận, cùng với cả 4 thầy trò Đường Tăng bắt đầu tìm đến số phận để thành Phật, xin mời xem tiếp ở những bài viết sau!!

(Còn nữa)

Tây Du Ký – Sự đấu tranh của con người với các thế lực thần quyền (Phần 2)

Cái gì đến rồi cũng phải đến, nó đến nhanh đến mức mà ngay cả Ngọc Hoàng, người nắm trong tay số phận muôn loài cũng không hề ngờ tới, Ngọc Hoàng lòi ngay cái đuôi cho người tài ăn bánh phỉnh. Ngộ Không sau khi giao du trên trời, nhanh tróng biết được chức Bật Mã Ôn là một chức quan không những không còn thể nhỏ hơn nữa, mà còn chẳng có phẩm hàm gì, chỉ đơn thuần là một tên chăn ngựa mà thôi liền tức khí “bỏ của chạy lấy người“, bỏ về Thủy Liêm động, Hoa Quả sơn tự xưng “Tề Thiên Đại Thánh” – vị thánh ngang bằng với Trời, ngang nhiên dựng cờ giữa trời khiến Ngọc Hoàng không khỏi tức giận. Có lẽ Ngọc Hoàng tự ái vì không ngờ ta ban ân huệ thế mà nó còn không thèm, còn ngang nhiên dựng cờ đòi ngang hàng với ta. Thế là dù Thái Bạch Kim Tinh có can đến đâu, Ngọc Hoàng cũng đùng đùng nổi giận bắt cha con Thác Tháp Thiên vương Lý Tịnh, Na Tra Tam Thái tử cùng Thiên lôi và 18 vạn thiên binh xuống bắt yêu hầu.

Dĩ nhiên, cha con nhà Tam Thái Tử Na Tra đâu phải là đối thủ của Ngộ Không. Nếu như ngày xưa Na Tra tung hoành với Hỗn Thiên lăng, với Càn khôn quyện…, thì nay Na Tra cũng thất bại trước một yêu hầu với một cần thiết bổng và thất thập nhị huyền công. Cha con Lí Tịnh và 18 vạn thiên binh thất bại thảm hại làm Ngọc Hoàng giật mình. Ngọc Hoàng đành xuống nước bãi binh, vời Tôn lên làm Tề Thiên Đại Thánh. Vậy là Ngọc Hoàng oai vệ lần thứ nhất thất bại trước Tề Thiên Đại Thánh. Và đây cũng là bước ngoặt dẫn đến cái cuộc “Đại náo thiên cung” long trời lở đất của Tôn Đại Thánh.

Tôn Ngộ Không lên làm Tề Thiên Đại Thánh, vốn tính khỉ hiếu động, liền dong chơi khắp chốn Thiên đình, từ làm quen đến Thái Thượng Lão quân, đến Thái Ất chân nhân, kéo sang cùng Nguyên Thủy Thiên Tôn, rồi đi đến kết thân hết các thiên thần thiên tướng và có lẽ ai cũng nể mặt Tôn Đại Thánh cả. Và Ngọc Hoàng lại giật mình. Có lẽ ông ta cũng giật mình khi thấy Tôn Ngộ Không cứ giao du thế, phải chăng ông ta sợ Tôn Ngộ Không tài phép đầy mình, sẽ đi kết bè đảng, rồi có ngày nào đó đám thần tiên dưới quyền ông ta sẽ nghe lời Tôn Đại Thánh, chẳng thèm phục tùng một Ngọc Hoàng bất tài như ông ta nữa? Biết đâu đấy, có mà “Trời mới biết được” Ngọc Hoàng nghĩ gì.

Chẳng thế mà một thiên thần ngu dốt tâu rằng “Tôn Đại Thánh nhàn rỗi ngày ngày giao du thế, tất sinh họa. Xin hãy cho ra trông coi vườn bàn đào!”, Ngọc Hoàng gật đầu ngay tắp lự. Đúng là thiên thần đã ngu dốt rồi, Ngọc Hoàng cũng chẳng sáng suốt hơn. Tôn là giống khỉ, cho khỉ coi đào có khác gì đem mỡ đặt trước miệng mèo, đem dê lùa miệng hổ, không cần bảo nó cũng chẳng để yên. Và thế là bi hài kịch bắt đầu. Được Thổ địa quảng cáo toàn đào xịn cả, Tôn lập tức chén đẫy làm tan hoang vườn đào khiến cho các Tiên nữ của Tây Vương mẫu đến lấy đào chỉ được có 1 ít đào ương ương xanh xít mà chẳng hiểu ra làm sao.

Hay khoan nói việc này, hãy nói tiếp chuyện về Tây Vương mẫu. Năm đó, Tây Vương mẫu mở tiệc bàn đào, chiêu đãi toàn thể chư tiên, thánh thần. Danh sách khách mời có đủ mặt mọi người, thật chẳng ngờ chẳng thèm mời đến Tề Thiên Đại Thánh. Thật là hết biết. Ngọc Hoàng là vua lạnh lùng đã đành, Tây Vương mẫu cũng như một vị hoàng hậu lạnh lùng, coi khinh luôn cả yêu hầu, chẳng thèm mời Tôn. Thế là Tôn đùng đùng nổi giận, làm cho bầy tiên nữ và thần thánh phục vụ cứng đơ, một mình đánh chén cỗ bàn tan hoang, uống rượu say bét nhè, lại còn đi lạc lên cung Đâu Suất của Thái Thượng Lão quân, lôi hết đống hồ lô linh đan mà Lão quân vất vả luyện được đem ra nhắm rượu, cứ như dân ta đem lạc rang uống rượu, còn gật gù “chẳng khác gì đậu phộng rang cả“, thật là tức cười. Với các thần tiên khác, được một viên linh đan của Lão quân là thuốc tiên quý báu, còn với Tôn, cũng chỉ như lạc rang thôi, chỉ khổ thân Lão quân vất vả.

Thực ra cái việc mà Tôn phản kháng lại sự “keo kiệt” của Vương Mẫu cũng thể hiện một cái văn hóa của dân Trung Hoa (cũng như dân Việt ta), bên cạnh sự cay cú vì bị coi rẻ, còn là sự bực mình vì miếng ăn (coi việc mời đi ăn cỗ là to tát mà, không được mời là kém miếng khó chịu lắm). Cho nên nói phản kháng của Tôn với các lề luật Thiên đình cũng là sự phản kháng của con người cũng một phần xuất phát từ điều đó.

Và thế là, cuộc chiến long trời lở đất của Tôn với Ngọc Hoàng bắt đầu ….

(Còn nữa)

Tây Du Ký – Sự đấu tranh của con người với các thế lực thần quyền (Phần 1)

Bài này viết theo lời hứa với một người bạn, sau khi đọc một bài trên blog của người đó viết về Tây Du, và cũng là chút cảm nhận của tôi về Tây Du Ký – một trong những cuốn truyện mà tôi rất mê, đọc gần như thuộc lòng nó từ khi còn bé xíu. Bản thân tôi, và tôi chắc rằng còn rất nhiều người khác không thể quên được cái cảm giác háo hức của đầu những năm 90, khi phải đi xem nhờ TV để xem phim Tây Du Ký (đạo diễn Dương Khiết) lần đầu tiên phát trên màn ảnh truyền hình VN (khi đó quê tôi còn nghèo lắm, TV hiếm vô cùng). Hi vọng mọi người có cùng sở thích đọc Tây Du như tôi cùng vào đây bình luận.

Tây Du Ký là cuốn tiểu thuyết thần thoại của nhà văn Ngô Thừa Ân, cùng với Tam Quốc, Sử ký Tư Mã Thiên, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng là những tác phẩm văn học bất hủ, được xếp vào hàng ngũ những cuốn sách hay nhất của nhân loại. Thế giới chính của Tây Du là thế giới thần tiên của Đạo Lão và thế giới hư không của Đạo Phật, xen kẽ với Trung Hoa thời đại trị vì của Đường Thái Tông, lấy trên gốc câu chuyện nhà sư Trần Huyền Trang từ Đại Đường sang Ấn Độ thỉnh kinh (thực chất là học Phật giáo Đại Thừa) về truyền bá ở Trung Hoa (lúc đó mới chỉ có giáo lý Tiểu Thừa).

Tây Du Ký là một thế giới thần tiên cực kỳ phong phú, với đủ mặt các vị thần tiên trong thế giới thần linh của Trung Hoa, đủ mặt các vị Phật trong Phật giáo Trung Quốc. Và nhân vật chính, Tôn Ngộ Không, đứng trung tâm trong cái thế giới ấy với cái danh hiệu cực kỳ ngạo nghễ – Tề Thiên Đại Thánh. Hình ảnh Mỹ hầu vương Tôn Ngộ Không tay cầm cần thiết bổng nặng “mười vạn ba ngàn năm trăm cân“, mang trong mình “thất thập nhị huyền công” – 72 phép thần thông biến hóa, cùng với cân đẩu vân trong nháy mắt đi tới “mười vạn tám ngàn dặm” (sáng chơi Bắc Hải, chiều ở Thương Ngô), tung hoành từ Âm tào địa phủ của Diêm Vương đến điện Linh Tiêu của Ngọc Hoàng, đánh cho 18 vạn thiên binh thiên tướng của Ngọc Hoàng kinh hồn bạt vía, khiến cho Ngọc Hoàng oai linh phải chui xuống gầm bàn mà kêu cứu như một tượng đài tiêu biểu của cuộc đấu tranh chống lại định mệnh của con người. Nhưng rốt cục, Ngộ Không cũng không thoát khỏi định mệnh đã định sẵn – trở thành một “Đấu chiến thắng Phật” – một vị Phật.

Ba lần đánh Bạch Cốt Tinh

Tôn Ngộ Không là một chú khỉ đá, do tảng đá hấp thụ tinh khí trời đất sinh ra ở Hoa Quả sơn, đất Đông Thắng thần châu. Từ khi mới ra đời, chú khỉ này đã lãnh đạo cả bầy khỉ xông vào động Thủy Liêm – đi vào đi ra không xây xước mình mẩy – sống tiêu dao trong thế giới yên bình nơi Hoa Quả sơn – làm một Mỹ Hầu Vương. Nhưng rồi, chú khỉ đã nhận ra “rồi không ai thoát khỏi cái chết, chẳng ai là không bị lão Diêm Vương cai trị cả“. Phải làm sao đây? Mỹ Hầu Vương đã lênh đênh vượt biển, tìm đến nơi Bồ Đề tổ sư cố công tu luyện học phép tiên với ham muốn trường sinh bất tử, chống lại sự quản cố của Diêm Vương. Cái tên Tôn Ngộ Không là do Bồ Đề sư tổ đặt – chú khỉ này có dáng như trẻ con nên có họ là Tôn, cái tên Ngộ Không mang ý nghĩa giác ngộ. Trong bất kỳ bài học nào, Ngộ Không cũng hỏi “Phép này có trường sinh được không?“Và rồi, biết chắc số phận long trời lở đất sau này của Ngộ Không, Bồ Đề tổ sư vẫn truyền cho Tôn “thất thập nhị huyền công” cùng với cân đẩu vân đi mười vạn tám ngàn dặm bởi chỉ có người đệ tử này hiểu được cái chân lý huyền diệu mà thôi. Bồ Đề tố sư đuổi Ngộ Không ra khỏi sư môn với cái cớ “khoe khoang đạo học” thực ra là một cái cớ hợp lý thôi, ông thừa hiểu rằng Tôn Ngộ Không không thuộc về thế giới tu tiên, và ông muốn người đệ tử này quay về nơi mà anh ta đi, chỉ với yêu cầu “Ngày sau gây ra chuyện gì thì không được nhận mình là đệ tử của Bồ Đề tổ sư“.

Ngộ Không trở về Hoa Quả sơn, cùng bọn Ngưu Ma Vương kết nghĩa anh em, đầu tiên là xuống Long cung xin binh khí. Ta hãy chú ý chi tiết này, đọc vội vàng, người ta thường bảo Tôn Ngộ Không dùng sức mạnh đoạt gậy thần ở Long cung, nhưng không phải thế. Đoạn này còn cho thấy Đông Hải Long Vương – một vị thần cai quản sông biển tráo trở thế nào. Ban đầu, Tôn Ngộ Không xin Long Vương binh khí, và mọi thứ binh khí mà ông ta đưa ra đều bị Tôn Ngộ Không chê nhẹ, không vừa tay. Có lẽ Long Vương tự ái, bèn chỉ ra cây gậy sắt dùng để đo độ sâu của biển, thách Tôn lấy được thì cho. Ai ngờ số mệnh định sẵn, cây gậy tuân theo ý của Tôn, và bị Tôn xơi mất. Long Vương đòi lại không nổi, lại phải cúng cho Tôn bộ giáp vàng. Cay cú, Đông Hải Long vương bèn lên Trời kiện Tôn – vụ kiện đầu tiên trong Tây Du.

Chúng ta hãy chú ý, dòng họ nhà Long vương trong thần thoại Tàu là họ Ngao (Đông Hải Long vương tên là Ngao Quảng, cùng với 3 vị khác là Ngao Khâm, Ngao Thuận, Ngao Thân cai trị tứ hải). Thần thoại Trung Hoa chi tiết hơn Việt Nam rất nhiều. Mỗi vị thần tiên đều có lai lịch và tên tuổi rõ ràng. Ví dụ như họ Ngao là dòng họ Long Vương; Nhị Lang thần là Dương Tiễn có Hạo thiên khuyển, có 3 con mắt với đại đao ba mũi hai lưỡi; Thác Tháp Thiên Vương Lý Tịnh, có ba con là Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra; Thần Tài là Triệu Công Minh từng đối địch với Khương Tử Nha, chết được phongthần… Điều này thể hiện sự phong phú và phát triển cao của nền văn hóa Trung Hoa. Thực sự nước Việt ta nhỏ, không so sánh được với Trung Hoa về khoản này. Và văn hóa ViệtNam ta cũng khác, ai đó đừng nên so sánh hay đòi so bì với Trung Hoa làm gì.

Sự phản kháng với số phận của Ngộ Không bắt đầu trở nên quyết liệt, khi một mình đại náo Diêm Tào, bắt Diêm Vương đem sổ sinh tử, gạch tên toàn bộ các loài khỉ, khiến cho Âm Ti không cai quản nổi sự sống chết của loài khỉ. Tất nhiên, “các thế lực” đè nén này chẳng chịu được sự phản kháng của Ngộ Không – vụ kiện thứ hai bắt đầu, hài hước hơn là Diêm Vương – ông chùm gây bao nỗi kinh sợ của con người mặt đất lại phải lóc cóc lên trời kiện một người mà nhà Trời từng khinh thường gọi là con “thạch hầu”. Và cuộc chiến của Tôn Ngộ Không với Ngọc Hoàng Thượng Đế bắt đầu.

Thái Bạch Kim Tinh là một vị tiên hòa hoãn và ông ta bày kế mời Tôn Ngộ Không lên trời làm quan nhằm tránh họa binh đao. Kế này được chấp nhận và Tôn Ngộ Không lần thứ nhất lên trời. Ta lại thấy một Ngọc Hoàng cai trị muôn loài mà sao chẳng có con mắt nhìn người chút nào, lại khinh thường tài năng đến vậy. Một “yêu hầu” tài phép đầy mình như Tôn chỉ được phong chức quan Bật Mã Ôn, chuyên chăn ngựa, mà chẳng có chức vụ nào bé hơn thế nữa. Lẽ ra Ngọc Hoàng, người nắm trong tay số mệnh của muôn loài phải biết nhìn tài năng của mọi người, đằng này…

Tôn Ngộ Không là người duy nhất dám đứng trước mặt Ngọc Hoàng (thậm chí không thèm cúi đầu), trả lời gọn lỏn rằng “Có Lão Tôn đây!“. Một mình Tôn khiến cho Long cung, Âm tào địa phủ khiếp sợ, thoát khỏi kiếp luân hồi như thế thì hiển nhiên Tôn chẳng coi cái “ông Trời” kia là gì. Và rồi mặc cho các vị tiên thần trên trời khiếp sợ, Tôn cứ nghênh ngáo với ông Giời, và đến mức “Ngọc Hoàng cũng phải nể Lão Tôn đôi ba phần“…

(Còn nữa…)